Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 23 tháng 6, 2017

CĂNG THẲNG LEO THANG TRONG QUAN HỆ VIỆT – TRUNG


 
CĂNG THẲNG LEO THANG TRONG QUAN HỆ VIỆT – TRUNG
 
Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc – Thượng tướng Phạm Trường Long – đã cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam từ ngày 18 đến 19/6/2017 và bất ngờ rời Hà Nội vào chiều tối ngày 18/6 mà không công bố nguyên nhân. Đồng thời chương trình Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt – Trung lần thứ 4 tại tỉnh Lai Châu (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc) đã bị hủy.

Tân Hoa Xã tường thuật rằng tướng Phạm trong chuyến thăm đã nhấn mạnh rằng “toàn bộ các đảo ở Biển Nam Hải (là tên gọi Trung Quốc dùng để chỉ Biển Đông) đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời thượng cổ.”
.
Thông tin từ Hà Nội cho biết, trong chuyến thăm tướng Phạm Trường Long yêu cầu Việt Nam ngừng các hoạt động khai thác dầu tại lô 136/03 nơi mà Việt nam mới đây cho phép công ty dầu khí Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động khai thác gần bãi Tư Chính và cũng là nơi Trung Quốc cắt cáp tàu khảo sát địa chính của Việt Nam hồi năm 2011. Phía Việt Nam đã từ chối lời yêu cầu này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Đây có lẽ là nguyên nhân khiến Phạm “quyết định bất ngờ” rời Việt Nam sớm. 
.
Thời gian gần đây đã có những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam xích lại với Mỹ và Nhật Bản như: Mỹ chuyển giao cho Việt Nam 6 tàu tuần cao tốc cỡ nhỏ và một tàu tuần duyên cỡ lớn, Nhật Bản cấp tín dụng cho Việt Nam đóng một số tàu Cảnh Sát Biển và mới nhất hôm 13/6/2017, tàu Echigo của Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản thăm Đà Nẵng và có các hoạt động huấn luyện chung trên biển với Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Vùng 2 tại Đà Nẵng đã khiến Trung Quốc “dường như đã giận dữ”.
.
Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc Phòng Úc cho biết đã có thông tin về việc Trung Quốc đã triển khai khoảng 40 tàu và máy bay vận tải Y -8 đến khu vực khai thác của Việt Nam. Theo ông rất có thể sẽ có những đụng độ xảy ra tại khu vực này trong vài ngày tới và nếu điều này xảy ra thì đây có thể là sự kiện nghiêm trọng nhất trong vài năm qua tại biển Đông.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tiến thoái lưỡng nan khi xuất khẩu sang Trung Quốc


Trong năm nay, thị trường Trung Quốc đã cho người nông dân Việt Nam một “cú đấm đau” khi đột ngột ngừng mua heo, khiến giá thành heo ở Việt Nam xuống mức thấp kỷ lục trên toàn thế giới. Trong khi đó người dân vẫn phải vay ngân hàng để mua thức ăn cho heo vì không bán được. Hàng loạt các chương trình “giải cứu người nuôi heo” được chính người dân và chính phủ xây dựng lên để giúp đỡ bà con trong cảnh khốn cùng. Cuối tháng 4 vừa rồi, bộ Nông nghiệp Việt Nam đã phải sang Trung Quốc để “cầu cứu” xuất khẩu thịt heo sang nước này.


Trung tâm thương mại của Trung Quốc nhìn từ cửa khẩu Tân Thanh ở tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam chụp hôm 5/2/2009.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc đạt gần 22 tỷ USD vào năm ngoái, chiếm 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Mặc dù Trung Quốc lâu nay là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng khi xuất khẩu sang nước này Việt Nam thường xuyên phải chấp nhận giá bán rẻ mạt hơn khi xuất sang các quốc gia khác.

Giá bán rẻ mạt

Một trong những mặt hàng được Việt Nam xuất mạnh nhất sang Trung Quốc là khoáng sản. Tuy nhiên theo báo cáo của Tổng cục hải quan, trong 5 tháng đầu năm nay, thị trường Trung Quốc là bến đỗ của hơn 3/4 lượng quặng xuất khẩu nhưng lại có mức giá rẻ gần gấp đôi mức giá mà Việt Nam bán cho các thị trường khác.

Một doanh nghiệp xuất khẩu quặng cho Trung Quốc, xin giấu tên, cho Đài Á Châu Tự Do biết:

Bên khoáng sản bọn tôi thì thường khi Trung Quốc dôi nguồn hàng của các nước khác thì sẽ đẩy Việt Nam xuống. Khi mà các nước khác không có thì mới chấp nhận giá Việt Nam ngang với giá thị trường. Ví dụ ở châu Phi rẻ thì họ lấy hàng của châu Phi. Mà khi châu Phi rẻ thì họ ép Việt Nam xuống. Mặt hàng quặng cũng vậy, nó mua được của Sri Lanka nhiều thì sẽ cắt Việt Nam.

Thứ hai là chính sách vĩ mô, người ta không cho xuất khẩu quặng thô nữa mà bắt phải chế biến sâu, mà Trung Quốc có cần hàng chế biến sâu của Việt Nam đâu

Mặc dù giá rẻ như vậy nhưng hiện tại Việt Nam vẫn đang xuất 11.000 tấn quặng sang Trung Quốc mỗi ngày.

Theo dữ liệu của Cục Thuế xuất nhập khẩu, thuộc Tổng cục Hải quan, hiện xuất khẩu quặng và khoáng sản của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu vẫn là quặng nhôm, quặng sắt, apatit và một số loại quặng khoáng phục vụ trong ngành vật liệu xây dựng, xi măng.

Ngoài xuất khẩu quặng và khoáng sản, hiện Việt Nam cũng xuất một lượng lớn dầu thô sang Trung Quốc. Trong 5 tháng đầu năm, lượng dầu thô mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc chiếm 40% lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên giá bán cũng đang giảm so với các thị trường khác.

Đồ gỗ và thủy sản cũng là những mặt hàng thường phải chấp nhận xuất sang Trung Quốc với giá rẻ hơn thị trường. Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho chúng tôi biết nguyên nhân tình trạng này:

Thường thường yêu cầu chất lượng của Trung Quốc thấp hơn yêu cầu của các thị trường khác như EU, Mỹ, Nhật Bản,…Ngoài ra cự ly vận chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc cũng gần hơn rất nhiều, cho nên chi phí vận tải thấp hơn. Tiếp theo là số lượng Việt Nam có thể xuất sang Trung Quốc thường là lớn hơn.

Một số nguyên nhân khác cũng gây ảnh hưởng đến giá cả khi xuất khẩu gỗ sang Trung Quốc, theo ông Hoài, là do sản xuất quá nhiều, gây lượng hàng tồn đọng lớn nên các doanh nghiệp phải “bán tống bán tháo” với giá rẻ hơn. Đôi khi, các doanh nghiệp cũng phải xuất khẩu để thăm dò thị trường, chào hàng hoặc có các mặt hàng gỗ quý nhưng Trung Quốc đột ngột dừng mua nên cần bán giá rẻ hơn để tiêu thụ.

Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2017 tiếp tục là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch đạt 32,76 tỷ USD.

Tuy nhiên cũng trong năm nay, thị trường Trung Quốc đã cho người nông dân Việt Nam một “cú đấm đau” khi đột ngột ngừng mua heo, khiến giá thành heo ở Việt Nam xuống mức thấp kỷ lục trên toàn thế giới. Trong khi đó người dân vẫn phải vay ngân hàng để mua thức ăn cho heo vì không bán được. Hàng loạt các chương trình “giải cứu người nuôi heo” được chính người dân và chính phủ xây dựng lên để giúp đỡ bà con trong cảnh khốn cùng. Cuối tháng 4 vừa rồi, bộ Nông nghiệp Việt Nam đã phải sang Trung Quốc để “cầu cứu” xuất khẩu thịt heo sang nước này.

Trước đó, những người dân trồng chuối ở Đồng Nai, hay trồng chanh dây ở Gia Lai nói với chúng tôi rằng họ lâm vào tình cảnh dở khóc dở cười khi bị thương lái Trung Quốc ép giá, thậm chí là ngừng mua. Chanh leo có thời kỳ lên đến 52.000 đồng/kg nhưng đã giảm chỉ còn 10.000 đồng/kg.

Vẫn phải bán!

Đáp lại câu hỏi của chúng tôi rằng vì sao thị trường Trung Quốc thường xuyên nhập hàng của Việt Nam với giá rẻ như vậy nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu một lượng rất lớn, chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Ngô Trí Long cho biết:

Là vì hiện nay nó mang lại lợi nhuận rất lớn cho những người xuất khẩu mà thị trường trong nước khả năng không tiêu thụ được thì người ta phải đưa sang bên kia thôi.

Ông đánh giá nguyên nhân chính khiến Việt Nam mặc dù rất muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước khác như khối EU chẳng hạn để được giá thành cao hơn nhưng không thể là do chất lượng sản phẩm Việt Nam không đảm bảo tiêu chuẩn của họ.

Chỉ tính riêng mặt hàng gạo, năm ngoái Cục Chế biến Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối cho biết chỉ trong vòng 4 năm qua Việt Nam đã bị Mỹ trả về khoảng 10.000 tấn gạo vì dư lượng chất bảo vệ thực vật. Cũng tính từ năm 2014 đến giữa năm 2015 đã có gần 32.000 tấn thủy sản bị các nước bạn hàng trả về do nhiễm bệnh và dư lượng kháng sinh.

Tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng về lâu dài, việc tiếp tục xuất khẩu với giá rẻ sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam:

Nếu mà là tài nguyên thì sẽ khiến nguồn tài nguyên cạn kiện đi do xuất khẩu thô. Thứ hai là chất lượng sản phẩm kém và giá thấp như vậy sẽ làm hạn chế năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Ông Ngô Sỹ Hoài Phó tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, cho rằng riêng đối với mặt hàng gỗ Việt Nam vẫn cần phải tận dụng thị trường Trung Quốc là vì họ giải quyết một số lượng hàng lớn cho Việt Nam:

Nói chung chúng ta cũng đang đa dạng hóa thị trường. Thực sự Việt Nam cũng đang xuất khẩu nhiều đồ mộc sang châu Âu nhưng thị trường châu Âu có rất nhiều rào cản và cũng không thể tiêu thụ hết các mặt hàng gỗ Việt Nam làm ra. Ngoài ra thị trường Trung Quốc có một đặc điểm là họ tiêu thụ rất nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mặt hàng từ các loại gỗ quý hiếm mà giá trị cao. Cho nên chúng ta phải tận dụng thế mạnh của từng thị trường.

Hàng Việt đưa sang Trung Quốc hiện đang được hưởng thuế suất ưu đãi trong khuôn khổ Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, nhưng Bắc Kinh vẫn áp dụng thuế giá trị gia tăng 13%-17% với Việt Nam, và đó cũng là một nguyên do khiến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt giảm đi.

Lan Hương


Phần nhận xét hiển thị trên trang

VN: Chính phủ chỉ đạo Quân đội thôi làm kinh tế


Tại một cuộc họp do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Chiêm phát biểu nói Quân đội Việt Nam 'không làm kinh tế nữa'. "Chấp hành ý kiến của Chính phủ, hiện Bộ Quốc phòng đã ra lệnh dừng tất cả các dự án tại đây. Ngày mai sẽ họp toàn bộ Bộ Quốc phòng để chuẩn bị văn bản báo cáo Thủ tướng. Chúng tôi sẽ chấp hành nghiêm theo quy hoạch của Chính phủ," Tướng Lê Chiêm nói.

Quân đội nay cần tập trung bảo vệ Đảng, 
Nhà nước
  và Nhân dân, thôi kinh doanh kiếm lời
Thượng tướng Lê Chiêm được báo chí Việt Nam hôm 23/06/2017 trích thuật nói nhiệm vụ của Quân đội nay là "tập trung cho xây dựng chính quy hiện đại để bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân".

Ngoài cam kết dừng mọi dự án quanh sân bay Tân Sơn Nhất, nơi sân golf của công ty quân đội Him Lam, nằm sát đường băng, đã gây điều tiếng nhiều năm qua, Tướng Chiêm còn nói về các doanh nghiệp khác.

Ông được báo Infonet.vn trích lời cho hay:

"Tất cả các doanh nghiệp quân đội phải cổ phần hóa, thoái vốn, chuyển ra ngoài hết, còn cái nào là phục vụ quốc phòng chứ không để làm kinh tế."

Tất cả các doanh nghiệp quân đội phải cổ phần hóa, thoái vốn, chuyển ra ngoài hết, còn cái nào là phục vụ quốc phòng chứ không để làm kinh tế
Tướng Lê Chiêm
Tuy nhiên, hiện chưa rõ quá trình này sẽ được thực hiện ra sao với số lượng không nhỏ các doanh nghiệp của Quân đội Nhân dân Việt Nam có mặt tại các ngành, từ ngân hàng, viễn thông, bất động sản, may mặc, vận tải, khách sạn, công nghệ thông tin và giải trí...

Vụt gậy vào sân golf?

Qua lời Tướng Lê Chiêm, người ta có thể hiểu sân golf tại sân bay Tân Sơn Nhất là một di sản của nhiệm kỳ thủ tướng trước, và nay cần giải quyết:

""Dự án này từ năm 2007 được 8 bộ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cái này là do lịch sử để lại, vấn đề là chúng ta giải quyết như thế nào. Quan điểm của Bộ Quốc phòng là ưu tiên phát triển hàng không dân dụng."


Viettel là một doanh nghiệp lớn của Quân đội Việt Nam

"Tại buổi làm việc về tình hình KTXH - an ninh quốc phòng 6 tháng đầu năm của TP.HCM, khi được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ định phát biểu, Thượng tướng Lê Chiêm lập tức đề cập đến sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất. Theo ông đây "là vấn đề nổi cộm".

"Chấp hành ý kiến của Chính phủ, hiện Bộ Quốc phòng đã ra lệnh dừng tất cả các dự án tại đây. Ngày mai sẽ họp toàn bộ Bộ Quốc phòng để chuẩn bị văn bản báo cáo Thủ tướng. Chúng tôi sẽ chấp hành nghiêm theo quy hoạch của Chính phủ," Tướng Lê Chiêm nói.

(BBC)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thằng “Bốn Chấm không” vớ vẩn


Hà Ánh Charlie Dương
(Tác giả gửi Blog Hahien)
4 cuộc Cách mạng (Hình minh họa: Internet)







Nhóm Cà phê Sáng ở trước cửa nhà mình gồm mấy thành viên đều có thâm niên hưu đến mười mấy năm với vài chục tuổi đảng (sau đây xin trân trọng gọi là các cụ), riêng mình hưu mới 2 năm, đảng thì 0 tuổi. Do mình trước đây là Nhân viên hợp đồng không thời hạn ở ngành Khoa học – Công nghệ nên thường được các cụ tín nhiệm hỏi ý kiến về lĩnh vực then chốt này của đất nước.
Sáng nay, một cụ đặt vấn đề “Gần đây nghe các vị lãnh đạo và đài báo nói nước ta đang đứng trước cuộc Cách mạng “bốn chấm không”. Đề nghị anh Rương giải trình làm rõ về cuộc cách mạng này có ảnh hưởng gì đến đường lối cách mạng của Đảng ta không!”.
“Chết cha!”, mình nói thầm trong bụng trước yêu cầu hết sức lớn lao và nhạy cảm này của các cụ với một anh “nhân viên đánh máy” chót dại mang danh là “Cán bộ Khoa học-Công nghệ ” như mình. Thôi thì đành hoãn binh rằng “Các cụ cứ từ từ để em trả lời. Cuộc cách mạng này chắc là cách mạng tốt chứ không phải cách mạng xấu đâu mà các cụ phải lo lắng quá!”.
Rồi mình chạy vội vào nhà lấy ra cái iPad mà con gái vừa mua cho bố hôm rồi vẫn chưa quen sử dụng để nhờ Đồng chí Google trả lời giúp. Hết già nửa ly cà phê mình mới tìm ra được mấy câu giải trình cho các cụ đại khái chả biết có đúng không rằng “Thưa các cụ, đó là cuộc Cách mạng về Công nghiệp lần thứ tư nên gọi là “bốn chấm…”. Ba cuộc trước là các cuộc lần lượt phát minh ra máy hơi nước, động cơ điện, máy tính điện tử… Đến cuộc này là sự xuất hiện của cái mạng internet và những thằng người máy thông minh hơn cả… người thật!”. Một cụ tự ái “Hơn là hơn thế nào?”. Nhân tiện trong tay có cái iPad, mình nói liều luôn rằng “Như cái tấm bảng mỏng này cũng là sản phẩm “bốn chấm không” đấy ạ! Nó biết chả thiếu điều gì trên đời.
Một cụ hỏi khó “Thế nó có nắm được 27 biểu hiện suy thoái của đảng viên không?”. Mình chột dạ không dám trả lời ngay, rồi ngầm đưa tay lướt lên iPad. Mới nhấn đến “27…” nó đã xổ ra đầy đủ không thiếu chữ nào “27 biểu hiện suy thoái về…”. Mình hoàn toàn tự tin khẳng định với các cụ “Dạ, nó chỉ ra ngay đầy đủ và chính xác 27 chấm suy thoái, trong đó có 9 chấm về chính trị tư tưởng, 9 chấm về đạo đức lối sống và 9 chấm về tự diễn biến, tự chuyển hóa đây ạ!”.
Một cụ cao tuổi nhất cạn ly cà phê, ngửa mặt lên trời vui vẻ kết luận “Cám ơn anh Rương! Lão hiểu “Cách mạng bốn chấm không” rồi! Hay nhể!”. Rồi chỉ tay vào cái iPad bảo “Cái thằng Bốn Chấm Không này nói chung là thông minh đấy nhưng riêng cái chỗ “Hai mươi bảy chấm” thì hơi bị…vớ vẩn!”
H.A.C.D

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Chiêm: ‘Quân đội sẽ không làm kinh tế nữa’

>> Chữ Tín

>> Đứng núi này, trông núi nọ
>> Học từ những nhà báo lớn
>> Đại biểu Quốc hội nói về trường hợp cán bộ không chịu trả nhà công vụ


Trung Hiếu - Đình Phú
TNO - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Chiêm khẳng định chủ trương của Bộ Quốc phòng là quân đội sẽ không làm kinh tế mà chỉ tập trung xây dựng quân đội vững mạnh. chính quy, tinh nhuệ...

Tại buổi làm việc của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với lãnh đạo TP.HCM sáng 23.6, thượng tướng Lê Chiêm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định chủ trương của Bộ Quốc phòng là quân đội sẽ không làm kinh tế mà chỉ tập trung xây dựng quân đội vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ bảo vệ Đảng, nhân dân.

Liên quan đến dự án sân golf Tân Sơn Nhất, thứ trưởng Chiêm cho hay thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng ra lệnh dừng tất cả công trình ở sân golf Tân sơn Nhất để kiểm tra báo cáo với Bộ Quốc phòng. Thượng tướng Lê Chiêm cũng thông báo với TP.HCM là Bộ Quốc phòng sẽ thực hiện nghiêm ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện đúng theo quy hoạch của Thủ tướng.

“Báo cáo với UBND TP, vấn đề này chúng ta yên tâm, không có vấn đề gì. Dự án này từ năm 2007 đã được 8 bộ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cho nên cái này (dự án sân golf  - PV) là do lịch sử để lại và cần được giải quyết, giải quyết như thế nào cho hợp lý. Quan điểm của Bộ Quốc phòng sẽ ưu tiên cho quy hoạch phát triển hàng không dân dụng”, ông Chiêm nói.

Thượng tướng Lê Chiêm cũng cho biết quỹ đất quốc phòng ở TP.HCM hiện rất lớn, do lịch sử để lại, còn rất nhiều vấn đề liên quan. Hiện nay theo chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Quốc phòng đang tổ chức thanh tra toàn bộ đất quốc phòng ở TP.HCM. Chỗ nào cần sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng, chỗ nào không cần sử dụng và theo yêu cầu của TP.HCM sẽ sẵn sàng bàn giao lại để phát triển kinh tế.

“Quan điểm này là quan điểm của thường vụ, của Quân ủy Trung ương. Hiện nay Bộ Quốc phòng có chủ trương là quân đội không làm kinh tế nữa mà tập trung cho xây dựng quân đội vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại để bảo vệ Đảng, nhân dân. Quân đội sẽ không làm kinh tế nữa. Tất cả các doanh nghiệp quân đội sẽ cổ phần hóa, thoái vốn hết. Cái nào của quốc phòng chỉ để phục vụ cho quốc phòng chứ không có lăn tăn gì hết. Quân đội sẽ không làm kinh tế vì như thế sẽ không thể hiện sức mạnh quân đội”, ông Chiêm khẳng định.

Liên quan đến dự án sân golf trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho hay đây là quan điểm của lãnh đạo, người dân cử tri TP.HCM. Ông cũng yêu cầu phải kiếm tư vấn nước ngoài tìm ra phương án tốt nhất để đánh giá, tư vấn rồi báo cáo Quốc hội, Chính phủ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

Vài lời tản mạn về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


*
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... 

Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng.... Có lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná, trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà cụ vẫn cố dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn Khôi sẽ rõ/chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”. Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất, khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn, nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thị chuyên gia Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi, cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be chắn, thiếu tập trung mất đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”, không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm, trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”, “Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì “mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả phù dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào chân chính làm nên tác phẩm Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh” đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được “bóng chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/ tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền ngã… Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ... Tính tìnhBác là Hồ Chí Minh/ Tỉnh tình đâu mà dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui nhưng đọc thấy thô tục vô độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi vẳng lên câu ca dao “Em xinh lời nói cũng xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu vè tếu táo mà Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở dại dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi các ám ngữ phóng từ tùy tiện này, nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Chữ “Giả” không đạt lắm. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời thường, kẻ đường chợ chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả ghép chân dung hai vợ chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm thiết, nhưng gây cho người ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”. Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm, thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”. Hay sâu xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần thơm/chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt phai đi/dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”, “Tâm sự Thúy Kiều” là tượng đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Đám cưới không giá thú”, “Bên kia bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá cứ tởm tởm mất vệ sinh…- Tôi lại lan man quá rồi! Trên các trang mạng nhan nhản phất phới lời ca lời bình 99 chân dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các nhà uy danh phong “tuyệt vời”, “Thượng thừa ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất khẩu thành chương”… “Nguyễn Khôi sáng ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình bàn rất kỹ rất hồn nhiên, các khuôn dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất miễn bàn. Lẽ ra tôi định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng như bài thơ “Văn Thùy dị nhân” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi Giáng là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên. Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu” giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí Phèo đi dự Fet ti van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái uy quang của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất thời đua nhau phấn đấu trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập sách, một là Giới tính và giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người, giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, được viết theo quan điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt thế nhưng cũng bị nhà chức trách thổi còi “đình bản” nhưng không thu hồi. Sách vẫn được truyền tay tìm đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà bác Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá thô, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay, không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật, sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ ngọt khế sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng, còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ kim... Bác Khôi lại cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi nhân, đã khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bần lâng vô vi thi vị. Với con người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác phẩm nào là “bát phố”, không khéo người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không? Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng, tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu: Giá như thi bá Nguyễn Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút, tĩnh tâm tận tình mà viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc ngấm, đọc thấu, đọc trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà thơ và cũng rất tiếc thay!
*
Khoan Tế, nh ững ngày đầu tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Điện thoại: 0166.467.78.26 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC:

"VĂN HỌC" ĐÃ CHẾT
Đặng Thân
Thực tại những thập niên qua đã phản ánh vô cùng rõ, rằng là, cái gọi là VĂN HỌC như chúng ta hằng tâm niệm, đã chết.
Xin nói ngay nó chết bởi bị cắt tiết. Thần Chết vung ra không chỉ một mà hai lưỡi hái song kiếm hợp bích: Facebook và Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Facebook (cùng các mạng xã hội) đã triệt hạ hết “thời gian nhàn rỗi” của hầu hết những người biết chữ, và toàn bộ lực lượng lao động chính. “The Facebook Empire” đã làm cho toàn bộ thần dân của nó quay cuồng trong News Feed và “Like” với đủ thứ đa phần lăng nhăng lít nhít, giải trí tầm phào, ba hoa xít tốc (đủ kiểu đau đẻ, ngứa ghẻ với hờn ghen). Đế chế này hiện đang cầm tù chừng 2 tỷ người, trong đó có 35 triệu người Việt, và đó cũng là lực lượng có “hàm lượng trí thức” dồi dào nhất. 
Phần lớn mọi công dân trong đế chế này hầu như không bao giờ đọc sách văn học xịn, có chăng là chỉ đọc thứ “thơ” và “tiểu phẩm” nhảm nhí, tào lao bí đao. Cái gọi là “văn học Facebook” phải là những văn bản dễ hiểu, dễ nuốt, chửi ầm lên, thường dài không quá 500 từ.

Một lần, tôi hỏi anh bạn người Ireland, lý do nào mà đất nước ông có hơn 4 triệu dân mà sinh ra đến 5 Nobel văn học. Anh ta trả lời, chắc tại Ireland mưa nhiều quanh năm, mọi người phải ngồi trong nhà nên đọc sách nhiều. Ồ, vậy là do trước đây chưa có Internet, chứ bây giờ thì e rằng ở đó có mưa nhiều đến mấy thì văn học nhẽ vẫn lệt bệt như... ai. Xưa kia, văn chương phát đạt, cầu kỳ, phong nhiêu, cũng nhờ ít thông tin, nay do Internet gây “khủng hoảng thừa thông tin” nên ắt người ta không “văn” kiểu ấy được nữa.
Viện Hàn lâm Thụy Điển thì đã làm gì? Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ không còn trao Nobel văn học cho những nhà văn xịn và những tác phẩm văn học hư cấu đỉnh cao (theo tiêu chí của giới văn chương “thượng thặng”). Đã lâu, văn giới khắp nơi thường chờ họ liếc mắt tới những là Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon, Ko Un, Javier Marías, Umberto Eco (vừa chết), Don DeLillo… Nhưng không, họ chả hạp với tâm tính Bắc Âu. Không phải là ý chính bài này, nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít năm ngay trong thế kỷ này thôi thì không biết bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách nào của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter, Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa thèm nói đến thế kỷ trước (Có điều nghe chừng khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel 2014 cho Patrick Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển lúc đó là Peter Englund nhận định: “Patrick Modiano có thể được coi là Marcel Proust của thời đại chúng ta.” Chà, Marcel Proust chính là “kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước đây cương quyết không trao Nobel!!) Và gần đây, bằng việc trao giải cho một nhà báo (Svetlana Alexandrovna Alexievich) vào năm 2015, và một ca-nhạc sỹ (Bob Dylan) vào năm 2016, ý đồ khai tử văn học của họ dường như đã trở nên lộ liễu. Có người đùa rằng, đó là những giải Nobel “vắn học”. Rất có thể, sắp tới “giải Nobel văn học” sẽ được trao cho bất cứ tác giả nào sản sinh ra những gì có “tính thơ”: nhà thiết kế thời trang, nghệ sỹ thị giác, nhà hoạt động môi trường… Phải chăng, văn học đã từ “kinh điển”  chuyển sang “kinh hãi”?
Một số thực trạng [khác]
Cũng trong văn học, thì không chỉ Nobel, giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 2016 trao cho Viet Thanh Nguyen với The Sympathizer cũng được nhiều người coi “chỉ là” thứ docu-fiction, kiểu tiểu thuyết trinh thám tư liệu. Các độc giả văn học “trí tuệ” đều kêu không nuốt nổi loại văn học này. Họ không thích vì không tìm thấy triết lý hay ho hoặc áng văn kiệt xuất nào cả. Họ có bảo thủ quá không?
Trong giới tinh hoa chóp bu thì hồi cuối thế kỷ trước Tổng thống Mỹ Clinton còn khoe đọc 4-5 tác phẩm văn học xịn (thường là tiểu thuyết) trong một tháng; sang thế kỷ mới Bush con không hề khai ra có đọc văn học hay không; Obama thì có đọc nhưng không biết mấy cuốn một tháng; còn bây giờ thì Trump nói thẳng đó là thứ vô bổ, thời gian đâu mà quan tâm, he he ngài cũng là active member của mạng xã hội, và là đại diện cho trào lưu “văn hóa đọc vắn học” hiện nay.
Còn trong “bình diện văn hóa quốc gia” thì Singapore hiện nay đã loại bỏ hoàn toàn văn học hư cấu ra khỏi nhà trường và xã hội. Một điểm 10 tuyệt vời trendy! Những quốc gia và miền đất có thái độ rõ ràng như Singapore không hề ít. Còn Hong Kong, thì đã được những người “văn hóa cao” coi là xứ culture-free từ lâu.
Nếu tâm tình xã hội đương đại và Viện Hàn lâm Thụy Điển thực sự nhậy cảm, và là “cánh chim báo bão” ngửi ra xu thế mới cho văn chương, thì ta cũng cứ cầu mong cho một nền văn học “cầu kỳ, cao xa” đã từng lừng lẫy kia hãy chết đi. Chắc chắn rằng “văn học đỉnh cao” như người ta vẫn thường quan niệm xưa nay đã chết thật rồi.
Quả thực, văn hóa, văn học và tư tưởng luôn thay đổi và tương tác xoáy xoắn chóng mặt, trong hiện tồn biến động không ngừng. Thế nhưng “quân ta” thì vẫn như thời ở hang Cốc Bó. Chẳng hạn, một câu thơ mà đến BÂY GIỜ nhiều người “ở ta” còn khen hay như “Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu” thì quái lạ thật. Nghe xong cứ thấy nó sến sẩm, hũ nút, làm dáng, vô nghĩa, vô sinh. Câu này chỉ có thể chấp nhận là kha khá nếu được làm trước năm 1945, kha khá thôi, chứ lúc đó mà đặt cạnh đám Cận-Tử giáng thế kia thì đã đủ “tự sát” rồi. Sang những năm 1950 thì người ta đã phải viết khác, kiểu như “Đám mây mùa hạ ấy / Chuyển lửa tới mùa thu”. Những năm 1960 thì phải là: “Đang mùa hạ nắng lửa / Mây lừa ta mùa thu”. Những năm 1970, người ta phải viết: “Mùa hạ rừng rực lửa / Chia chác để mà thu”. Vậy những năm 1980, thì là: “Đám mây trần mùa hạ / Vắt cửa mình sang thu”. Những năm 1990: “Mây / Mưa / Gáo dừa / Thủng / Lá khoai môn mùa hạ / Có che / Kín / Hậu môn mùa thu”. Thế thôi, chứ mấy chữ ấy thì không có visa sang chơi thiên niên kỷ thứ ba. Hà cớ gì câu thơ vớ vỉn ấy lại còn sống đến hôm nay nhỉ?? Với những bè lũ không chịu chui ra khỏi hang [Cốc/Pắc Bó], dẫu họ có đông nghìn nghịt, xin đừng nói chuyện văn thơ gì với họ, huống chi là chuyện XU HƯỚNG MỚI.
Nhưng xu hướng mới sẽ là gì?
Thông qua phân tích trên đây và nhìn thực trạng các ngành nghệ thuật, chúng ta có thể thấy rằng trong hội họa hiện nay người ta ưa dùng mixed media, âm nhạc hiện đại cũng thích các loại mixed sound. Cho nên, TREND mới thống đoạt thiên hạ trong văn chương cũng dường như là MIX, tuy nhiên, là phải vào tay “DJ” siêu đẳng, thì cái “mớ” ấy mới “ra chất” được. “Người đọc” nhẽ sẽ quan tâm, nhao vào với những tác phẩm pha trộn đủ thứ với nhau trong một văn bản cũng như diễn ngôn, trên giấy cũng như trên mạng, theo công thức kiểu như: văn xuôi + văn vần + thời sự + báo chí + triết + đạo + thiêng + tục + ba trời + ba xu + âm thanh + thị giác + bác học + bình dân + ly kỳ + tối giản + cao siêu + phàm phu + ảo diệu + thô lỗ + phi thực... Điều quan trọng, các tác phẩm đó, dù có thể gọi là SIÊU VĂN HỌC hay PHI VĂN HỌC gì chăng nữa, thì cũng vừa mang trong mình các đặc tính hiện đại và hậu hiện đại, vừa vượt qua tất cả, và nó THẲNG hơn rất nhiều (“Xọc vào đúng tim đen của Thượng Đế”). Nhưng hãy nhớ, thời này không còn cái quan niệm cách nay hai thế kỷ của Beethoven “a great poet is the most precious jewel of a nation” nữa.
[17/6/17]
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-6-17
http://www.viet-studies.com/DangThan_VanHocDaChet.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang