Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

Cuộc "Đả hổ.." đến cao trào rùi đây!

NLĐO)- Đoàn Thanh tra của Bộ Tài nguyên- Môi trường chủ trì sáng nay 28-9 đã công bố quyết định thanh tra môi trường dự án Núi Pháo tại Thái Nguyên.

Sáng 28-9, trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông Nguyễn Thanh Tuấn, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) tỉnh Thái Nguyên xác nhận, sáng nay Đoàn thanh tra Bộ TN-MT đã công bố quyết định thanh tra toàn diện môi trường dự án Núi Pháo.
Đoàn thanh tra do ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) làm trưởng đoàn; bà Trần Thị Minh Hương, Phó Giám đốc Sở TN-MT tỉnh Thái Nguyên là một trong 3 phó trưởng đoàn thanh tra.
Dự kiến, việc thanh tra toàn diện môi trường dự án Núi Pháo sẽ kéo dài trong thời gian 45 ngày, tính từ ngày 28-9.
Bên trong nhà máy Núi Pháo
Bên trong nhà máy Núi Pháo
Dự án Núi Pháo là dự án khai khoáng lớn nhất Việt Nam của Công ty TNHH Khai thác và Chế biến khoáng sản Núi Pháo (Công ty Núi Pháo) thuộc Công ty CP Tài nguyên Masan (Công ty Masan).
Mỏ Núi Pháo tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, được xem là mỏ có trữ lượng vonfram lớn nhất thế giới, đang do công ty Masan Resources đầu tư và khai thác.
Theo ghi nhận của Báo Người Lao Động, sau một thời gian đi vào hoạt động, dự án này nhận được nhiều khiếu nại của người dân về tình trạng gây ô nhiễm môi trường cũng như giải quyết chưa rốt ráo việc di dời các hộ dân ra khỏi khu vực ô nhiễm.
Các cơ quan chức năng của tỉnh Thái Nguyên cũng nhiều lần có kiến nghị lên Bộ TN-MT để xử lý một số vấn đề liên quan tới dự án này.
Người dân bức xúc phản ánh tình trạng ô nhiễm tại Núi Pháo
Người dân bức xúc phản ánh tình trạng ô nhiễm tại Núi Pháo
Trước đó, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Người phát ngôn Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết qua thanh tra, Bộ TN-MT sẽ cùng với UBND tỉnh Thái Nguyên hướng dẫn, chấn chỉnh Công ty Núi Pháo phải thực hiện đúng pháp luật; nếu phát hiện các vi phạm sẽ xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, đồng thời giải quyết thỏa đáng các kiến nghị, khiếu nại của người dân đối với hoạt động của Công ty.
N.Quyết

Phần nhận xét hiển thị trên trang

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC: NHIỀU VIỆC BỊ LẤY CỚ "NHẠY CẢM" ĐỂ KHÔNG MINH BẠCH THÔNG TIN


Vũ Ngọc Hoàng


 "Ở Việt Nam còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy cớ đó không minh bạch thông tin.
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu Phần 2 bài viết mới nhất của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, xung quanh một vấn đề mà ông luôn trăn trở - quyền lực và kiểm soát quyền lực.
Trong phần 1, tôi đã nói về lý do phải kiểm soát quyền lực. Trong phần 2 này, tôi xin góp bàn về quyền lực cần được kiểm soát như thế nào, bằng cách nào?
Kiểm soát quyền lực, Vũ Ngọc Hoàng, Tham nhũng, Lợi ích nhóm, Tự do ngôn luận, Con ông cháu cha, Tam quyền phân lập
Ông Vũ Ngọc Hoàng. Ảnh: Nhật Minh/ Vnexpress
Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Lời ấy không phải là hô khẩu hiệu, mà phải được thấm sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Mọi người phải ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng hành động thực tế.
Bảo đảm việc lập hiến là của toàn dân (thông qua cử tri toàn quốc), nhân dân phải trực tiếp quyết định những vấn đề cơ bản của Hiến pháp (chứ không phải là nhân dân góp ý để Quốc hội xem xét). Phải trưng cầu dân ý đối với những vấn đề quan trọng của đất nước. Tiến tới Chủ tịch nước phải do nhân dân trực tiếp bầu (chứ không phải Quốc hội).
Kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước
Tiếp theo, quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan về cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, trong đó có sự phân quyền giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, các nhánh ấy độc lập tương đối với nhau, giám sát chéo và điều chỉnh lẫn nhau, nhằm hạn chế sai lầm, hoặc khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.
Nói chung, các nhà nước phong kiến chưa giải quyết được việc kiểm soát quyền lực, mặc dù có lúc đã có một số quy định tiến bộ, manh nha của kiểm soát quyền lực. Luật lệ của triều đình có những quy định cấm các quan không được làm.
Một số triều đại đã từng có các quan ngự sử ghi chép trung thực, khách quan mọi việc liên quan đến các quyết định và ứng xử của nhà vua, của triều đình để lịch sử đánh giá, phán xét công, tội. Vua cũng không được kiểm duyệt các ghi chép này. Có các gián quan để can gián vua không làm việc sai; có trống để thần dân kêu oan; có “quan tòa” liêm chính để phán xử đúng sai…
Tuy nhiên, về cơ bản vẫn chưa giải quyết được vấn đề kiểm soát quyền lực. Nguyên nhân là do quyền lực tập trung vào tay vua và hoàng tộc, vua bảo chết thì phải chết, ý vua là ý trời, ý vua là pháp luật, còn nhân dân chỉ là đối tượng bị cai trị, không có quyền tự do, kể cả quyền sống, trái ý vua thì tùy theo mức độ và sự nóng giận của vua mà bị trị tội, kể cả tru di tam tộc.
Thời kỳ đầu của chế độ tư bản cũng vậy, quyền lực tập trung vào tay những người giàu có và cũng không được kiểm soát. Khi chế độ tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, đáng kể, có những bước tiến quan trọng về dân chủ xã hội, cộng với sự phát triển của các hệ tư tưởng, nhất là lĩnh vực triết học, làm thay đổi nhận thức và tư duy chính trị, thì quyền lực mới được kiểm soát đáng kể, và ngày nay vẫn đang phải tiếp tục hoàn thiện.
Phương pháp tiếp cận của nước ta lâu nay đối với vấn đề này chưa phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp hầu như không có kiểm soát, và trên thực tế, việc lạm dụng quyền lực đã rất nhiều. Chính nó đã tạo nên sự tha hóa đến độ rất phức tạp.
Gần đây Tổng Bí thư nói nhiều lần về việc kiểm soát quyền lực. Chúng ta có thể không dùng cụm từ “Tam quyền phân lập”, không tiếp thu theo kiểu bê nguyên, rập khuôn máy móc mô hình này của các nước phương Tây, vì mỗi quốc gia có đặc điểm văn hóa và ở giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng riêng về vấn đề kiểm soát quyền lực trong đó thì rất nên nghiên cứu một cách thật nghiêm túc.
Đồng thời với việc phân quyền một cách khoa học giữa ba nhánh nói trên, còn có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp.
Thật sự tạo điều kiện để nhân dân hạnh phúc
Tiếp theo, kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của nhân dân; tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia làm chủ đất nước.
Trong đó, cần phát huy tốt vai trò của xã hội dân sự lành mạnh. Ở đây, cần hiểu cho đúng xã hội dân sự với tư cách là các tổ chức và phong trào lành mạnh, hợp pháp, do nhân dân tự giác và tự nguyện lập ra. Nó không phải là một hình thái kinh tế - xã hội nào mà là một bộ phận hợp thành của xã hội hiện tại; không phải là tổ chức của nhà nước mà ngân sách phải cấp kinh phí và cũng không phải là đơn vị kinh tế hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Các tổ chức này ra đời và tồn tại nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xã hội; nó là phương thức rất quan trọng để thực thi quyền dân chủ của nhân dân. Nó đã từng tồn tại và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam truyền thống trước đây và trong xã hội Việt Nam hiện tại, tất nhiên là chưa hoàn chỉnh, chưa hiện đại.
Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình; có quyền phản đối những việc làm mà nhân dân cho là sai trái; có quyền yêu cầu cán bộ từ chức hoặc bị cách chức… Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời, giải trình, không được ngăn cản cấm đoán nhân dân thể hiện chính kiến một cách ôn hòa.
Phải khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc sai trái (kể cả của lãnh đạo) để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội. Ở đâu và khi nào mà công luận bị hạn chế, ngăn cản thì ở đó và lúc ấy cơ thể xã hội đang giảm sức đề kháng (đến một lúc bệnh nặng dần, trở thành liệt kháng - đó chính là căn bệnh HIV chết người).
Trong một xã hội tiến bộ, việc minh bạch thông tin có vị trí rất quan trọng, mọi người dân đều có quyền tiếp cận thông tin, không ai được bưng bít thông tin, giống như “ánh sáng ban ngày” thay cho “đêm tối”, để cái xấu, cái ác không còn nơi ẩn nấp, phải lộ rõ nguyên hình. Lâu nay ở Việt Nam ta còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm.
Chính sự không minh bạch này đã làm cho nhân dân nghi ngờ, mất lòng tin. Nghi ngờ dung túng, bao che, cùng “lợi ích nhóm”. Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy cớ đó mà không minh bạch thông tin. Chính việc không minh bạch ấy đã làm hạn chế hiệu quả của cuộc chiến chống tham nhũng và “lợi ích nhóm”, nếu như không muốn nói rằng nó cản trở các công việc ấy.
Một nhà nước của dân, cớ sao không báo cáo đầy đủ cho nhân dân biết? Nếu lãnh đạo không có ai dính dáng gì tiêu cực trong đó thì tại sao lại sợ minh bạch? Muốn minh bạch thông tin thì lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải mở rộng hành lang hơn nữa cho tự do ngôn luận và báo chí, còn bản thân báo chí cũng phải dũng cảm, bản lĩnh và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nhà báo dám dấn thân cho lẽ phải và không để bị mua chuộc.
Cũng có ý kiến lo ngại rằng, khi minh bạch thông tin về các vụ việc thì nhân dân sẽ mất lòng tin hơn nữa. Tôi không nghĩ như vậy? Không minh bạch mới làm mất lòng tin. Ai cũng có quyền nghi ngờ cả. Và người lãnh đạo tốt cũng mang tiếng lây. Không dám minh bạch vì sợ mất lòng tin thì đó là thứ lòng tin bị đánh lừa, lòng tin nhầm lẫn.
Văn học nghệ thuật cũng cần phải tích cực tham gia “trừ gian” để góp phần “tải đạo” theo các giá trị nhân bản và phương pháp nghệ thuật phù hợp. Để thực thi dân chủ, việc đầu tiên là thật sự tạo điều kiện cho nhân dân được mở miệng. Đó là cách nói mộc mạc dễ hiểu nhưng là chân lý của Hồ Chí Minh.
Nhà nước rất cần nghiên cứu chỉnh sửa các điều luật về tội “Tuyên truyền chống nhà nước” để cho nhân dân với tư cách là “ông chủ” được tự do phê bình đối với bộ máy và cán bộ phục vụ nhân dân, không để cho “đầy tớ” lợi dụng những quy định chưa chặt chẽ mà quy chụp, tống giam “ông chủ”, làm thay đổi bản chất của nhà nước nhân dân. Tất nhiên đồng thời phải chống loạn ngôn, chống vu cáo và xúc phạm các cá nhân và tổ chức, vi phạm tự do của người khác, kể cả nhân dân và người lãnh đạo.
Kiểm soát quyền lực, Vũ Ngọc Hoàng, Tham nhũng, Lợi ích nhóm, Tự do ngôn luận, Con ông cháu cha, Tam quyền phân lập
Còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Ảnh minh họa
Lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử
Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh những mặt làm được, nhìn chung trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng được nhân tài. Lịch sử nước ta đã nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy.
Trong chiến tranh, với sức mạnh thiêng liêng của hồn nước, nhân tài tụ về dưới cờ khởi nghĩa để chiến đấu vì mẹ hiền Tổ quốc. Đến khi hòa bình thì nhân tài, trung thần thưa vắng dần, còn nịnh thần thì chui vào ngày càng nhiều trong triều chính, dẫn đến tha hóa quyền lực và sụp đổ.
Cách làm công tác cán bộ chủ yếu là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của người lãnh đạo. Không ít trường hợp sắp xếp cán bộ theo quan hệ, hậu duệ, “lợi ích nhóm”; bị đồng tiền chi phối, thậm chí đồng tiền đã quyết định trong nhiều trường hợp; đề bạt con cháu, đồ đệ và những người ăn cánh.
Từ xưa tới nay, chế độ và triều đại nào cũng vậy, nạn mua bán chức quan là một trong các biểu hiện tha hóa quyền lực nguy hại nhất. Ở Việt Nam, nhiều năm rồi, cụm từ “buôn quan”, “buôn vua” đã xuất hiện, tồn tại và lan truyền. Ngôn ngữ không ngẫu nhiên mà có. Nó ra đời để phản ánh một thực trạng trong đời sống chính trị - xã hội.
Đến nay nạn chạy chức, chạy quyền đã trở nên khá phổ biến, có những trường hợp cứ như là đương nhiên, rất đáng lo ngại, kể cả ở những lĩnh vực hệ trọng. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề và những năm gần đây lại cộng với mặt trái của cơ chế thị trường và sự tha hóa quyền lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản công tác cán bộ theo hướng cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử trong môi trường thật sự tôn trọng ứng cử tự do và đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội; chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và nghiêm túc, khách quan, vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Đó cũng là cách để nhân dân và đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp lựa chọn những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân chính và xứng đáng của nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Khi các đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp đã được nhân dân bầu chọn thì phải toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, lắng nghe nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân, biểu quyết vì nhân dân. Tiến tới công khai cho nhân dân biết các đại biểu ấy biểu quyết thế nào đối với những công việc mà nhân dân bức xúc quan tâm, để giám sát sự trung thành với dân.
Tổ chức Đảng phải làm nòng cốt kiểm soát quyền lực
Nếu các đại biểu ấy là đảng viên thì càng phải gương mẫu thức hiện ý dân, coi lòng dân là sơ sở quan trọng nhất để hành động - đó là nguyên tắc cao nhất. Tổ chức Đảng đã giao cho đảng viên nhiệm vụ làm đại biểu chân chính của nhân dân, đảng viên cứ thế mà hành động; tổ chức Đảng không cầm tay chỉ việc, không yêu cầu đảng viên phải biểu quyết và phát ngôn cụ thể theo ý kiến cấp ủy.
Trung thành với nguyện vọng của dân, nói tiếng nói của dân - đó chính là nhân cách và ý thức đảng viên chân chính. Đảng vì nhân dân mà hành động chứ không vì cái gì khác, không để cho “nhóm lợi ích” chi phối và thao túng.
Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng lâu nay không ít trường hợp đã sử dụng biện pháp hành chính và quyền lực, thậm chí đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trên thực chất, và cũng chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực.
Với cách này, nếu kéo dài thì tổ chức Đảng sẽ bị quyền lực làm tha hóa, vừa hỏng công việc lãnh đạo đất nước, vừa hỏng bản thân tổ chức Đảng. Cần đổi mới một cách căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng không làm thay, không chồng chéo với công việc Nhà nước, nhất là việc sử dụng quyền lực, mà chuyển mạnh sang lãnh đạo chủ yếu bằng các giá trị văn hóa, từ chủ trương hợp lòng dân đến noi gương và thuyết phục, không áp đặt một chiều bằng biện pháp tổ chức, hành chính và quyền lực.
Đảng phải đại diện chân chính và xứng đáng nhất cho ngọn cờ dân chủ; phát hiện và chọn lựa cho được các hiền tài để giới thiệu với nhân dân. Đó cũng là cách làm truyền thống mà trước đây, trong điều kiện chưa cầm quyền, Đảng đã từng sử dụng để trở thành một Đảng lãnh đạo của nhân dân.
Bản thân trong tổ chức của Đảng cũng cần phải có cơ quan do đại hội cử ra để giám sát cán bộ lãnh đạo về nhân cách và việc sử dụng quyền lực. Tổ chức Đảng không đứng lệch về phía quyền lực và sử dụng quyền lực nhà nước, mà nghiêng về phía nhân dân, tập trung lãnh đạo và làm nòng cốt trong kiểm soát quyền lực, thực hành dân chủ rộng rãi và phát huy vai trò các tổ chức của xã hội dân sự lành mạnh để tham gia xây dựng, bảo đảm cho nhà nước thật sự là nhà nước của nhân dân - là mục tiêu xây dựng nhà nước mà Đảng nói lâu nay.
Vũ Ngọc Hoàng
*Tiêu đề, các tiêu đề phụ của bài viết do Tuần Việt Nam đặt.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

lửa trên núi Voi Nằm

Đấy là quãng thời gian tôi nhận được quá nhiều những khái niệm mới về cuộc sống: “lửa của thế kỷ”, rồi “người của thế kỷ” (người của thế kỷ đã về ngự trên núi).
Chuyện bắt đầu từ một ngọn lửa nhỏ trên núi Voi Nằm. Có thể là có ai đó trong số những người làng tôi đã nhìn thấy thật. Đêm, có ai đó trong làng đã nhìn thấy ngọn lửa trên núi Voi Nằm. Có thể chỉ là như thế. Nhưng qua trí tưởng tượng của người làng, như một thứ cơ năng chẳng thể giải thích nổi, ngọn lửa nhỏ trên núi đã trở thành câu chuyện lớn. Người làng tôi gọi ngọn lửa ấy là lửa của thế kỷ.
Chuyện lửa thì đã quá lâu đời. Buổi hồng hoang lửa là câu chuyện vui và hệ trọng. Lửa ở ngoài trời làm sáng đêm tiền sử. Lửa trong lòng làm nảy sinh khả năng nghĩ ngợi và ngôn ngữ loài giống (nhưng bỗng có lúc con người lại muốn đem lửa thiêu rụi cả hiện thực cuộc sống).
Thật ra, khi tiếp nhận được khái niệm này tôi cũng chỉ lơ mơ nghĩ “lửa của thế kỷ” như một ẩn dụ về một sự bùng cháy lớn lao nào đó sau những dồn nén ngoài sức chịu đựng.
Nhưng người làng tôi bỗng kháo nhau rằng “người của thế kỷ đã về ngự trên núi”. Đấy là một ông lão, ông lão của thế kỷ, đêm đêm đốt lửa trên núi, lửa của thế kỷ, để cảnh báo điều hệ trọng sắp xảy ra.
Điều hệ trọng gì?
Không ai nói được.
Lửa trên núi bỗng trở thành truyền thuyết.
Nhưng núi vốn là truyền thuyết
Và làng tôi, cũng như núi, vốn cũng là truyền thuyết.
Truyền thuyết nói rằng thuở mới có trời đất, tổ tiên người làng tôi ở chung với chim chóc hươu nai voi thỏ trên núi Voi Nằm. Cũng có thể, chúng tôi, lớp hậu thế trong làng, là hậu duệ của những cuộc hôn phối giữa giống người hommo sapiens với các giống chim chóc hươu nai voi thỏ trên núi. Cho nên, ngày nay, ở trong làng, tôi thường hay buồn vui theo tiếng chim buồn vui trên núi Voi Nằm. Nhưng đấy là chuyện của tôi. Còn chuyện của núi của làng thì như một cuộc bùng nổ về địa linh nhơn kiệt. Tổ tiên người làng tôi xưa có người nghe được tiếng cựa mình của mặt trời mặt trăng, có người trò chuyện được với muông thú trên rừng. Ngôi làng dưới chân núi là nơi sản sinh những nhơn kiệt. Nhưng rồi tất cả như đã bị phá hỏng bởi sự ngu xuẩn tích tụ qua các thời đại lịch sử. Nhơn kiệt có vẻ chẳng còn là bao. Và cây trên núi Voi Nằm cũng có vẻ chẳng còn là bao. Núi ngày nay có thể gọi là một ngọn núi đá. Từ làng tôi nhìn về phía nam thấy núi con voi đá nằm buồn bã nhìn con người của thế kỷ.
Và đêm tôi lại ra hiên hè ngồi chờ lửa trên núi Voi Nằm. Thật ra, tôi chưa bao giờ nhìn thấy lửa. Nhưng trong trí tưởng tôi thì đã quá nhiều lần tôi nhìn thấy lửa. Đã quá nhiều lần tôi trò chuyện với ông lão của thế kỷ. Đó là một ông lão cười khóc bất thường.
Vậy thì điều hệ trọng gì sắp xảy ra?
Tôi hỏi.
Ông lão chỉ tay vào vầng trán của ông như thể muốn bảo tôi hãy suy gẫm sẽ biết. Tôi chợt nhìn thấy một bầu trời đang ấp ủ bao nhiêu là cơ duyên kỳ bí. Bầu trời lồng lộng ở trên đầu tôi.
Rồi một ông lão trong làng gặp tôi và nói:
Đêm hôm qua ta đã nghe thấy tiếng nói của ông lão thế kỷ.
Ông ấy nói gì? Tôi hỏi.
Khi chúng đến thì rừng biển ruộng vườn làng mạc không còn! Ông đáp.
Một thứ dụ ngôn trên núi. Tôi ngẫm nghĩ.
Và sau đó thì câu hỏi có tính định mệnh bắt đầu hình thành trong đầu óc dân làng. Ngày ngày gặp nhau, người làng tôi lại hỏi nhau: Chúng là ai? Hử?
Vào một đêm, tôi ra hiên hè ngồi chờ lửa trên núi Voi Nằm, thấy ông lão thế kỷ nhìn tôi cười. Và thứ khái niệm mới ấy xuất hiện trong đầu tôi:
Giặc!
Nhất định chúng là giặc. Tôi nghĩ.
Tôi biết khái niệm ấy hình thành trong nhận thức của tôi như hậu quả tất yếu của một cuộc sống luôn bị lệ thuộc quá nhiều vào những thứ thế lực đen tối, và luôn bị đè nén ở bên dưới quá nhiều những tầng áp bức.

Giã 11AM 1/7/2016



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chống tham nhũng!



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chưa bao giờ người Sài Gòn sợ mưa như lúc này


Đúng một tháng kể từ cơn mưa chiều 26-8, chiều 26-9, ngay giờ tan tầm, một cơn mưa “khủng” trút xuống làm người dân cả thành phố hàng chục triệu dân nhốn nháo.
 >> Gần 1.400 ô tô, xe máy bị nhấn chìm trong trận mưa “lịch sử”
 >> Trận mưa lớn nhất hơn 40 năm qua “nhấn chìm” 59 tuyến phố Sài Gòn
 >> Sài Gòn mưa lớn: Xe máy ngập ngang yên, nhà dân ngập nửa mét

Đường đường ngập, nhà nhà ngập, nhà người dân trong hẻm ngập đã đành; ngoài “đường cái” thênh thang. Bệnh viện, trường học, công sở, bến xe… ngập; lươn ngộp trườn lên mặt nước. Nhiều tòa nhà được xem là hiện đại bậc nhất Sài Thành, trong đó có tòa Bitexco cũng lênh láng nước.
Sân bay Tân Sơn Nhất lại cũng không ngoại lệ. Hơn chục chuyến bay không xuống được đành phải di chuyển và đáp ké xuống sân bay lân cận. Rất nhiều hành khách bị trễ chuyến bay cũng vì… ngập.
Thật ra chuyện Sài Gòn mưa là ngập, ngập toàn diện là chuyện không lạ, không mới và đã liên tục xảy ra trong nhiều năm nay. Có điều, đáng ngại nhất chính là xu hướng lần ngập sau lại sâu hơn… lần ngập trước.
Lực lượng Cảnh sát PCCC Bình Thạnh đang dùng bơm hút nước ở các tầng hầm đường Phan Xích Long. Ảnh Phạm Hữu
Lực lượng Cảnh sát PCCC Bình Thạnh đang dùng bơm hút nước ở các tầng hầm đường Phan Xích Long. Ảnh Phạm Hữu

Người dân ở vùng trung tâm của thành phố được xem là “đầu tàu” của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam giờ cứ như con nghiện – rất sợ nước. Sợ đến mức ám ảnh, mới thấy trời chuyển mây đen đã sợ.
Người dân Sài Gòn sợ ngập đến mức phải thốt lên những ý tưởng là lạ song rất hợp với phương châm “sống chung với ngập”. Trong cơn mưa chiều nay, tôi nghe nhiều người dân trú mưa ước có loại phương tiện “xe máy xuồng”, tức bình thường thì là xe máy, khi đường ngập thì chiếc xe ấy chuyển thành xuồng.
Cũng trong cơn mưa, người dân đặt chỉ tiêu cho lãnh đạo và ngành chức năng thành phố rằng chẳng cần gì cao xa, chỉ cần tới năm 2020, giải quyết được nạn kẹt xe và ngập là xuất sắc lắm rồi.
Có người trong cơn sợ nhưng lại nghĩ “ngập là đặc sản của Sài Gòn”; hay “trước thì dân mền Tây, giờ thì dân Sài Gòn sống chung với lũ”; hoặc “đây là cơ hội để Sài Gòn kêu gọi đầu tư thủy điện”. Đâu đó, tôi nghe giọng người dân nhận xét chua xót: “Sài Gòn đâu có điểm đen bởi hễ mưa là nơi nào cũng ngập”.
Sài Gòn sau cơn mưa “khủng” chiều nay không ai thống kê được bao nhiêu xe máy, ô tô bị chìm trong nước; không ai thống kê bao nhiêu người lạnh run người do ngâm mình dưới nước cả mấy tiềng đồng hồ để chờ hết mưa, nước rút, và hết tắc đường.
Chuyện đi đứng, kinh doanh, đời sống của người dân bị xáo trộn, thiệt hại bao nhiêu cũng khó có thể thống kê. Chỉ biết rằng ai bước ra đường cũng bị ảnh hưởng, thiệt hại bởi ngập với đủ mức độ. Thương nhất là hàng ngàn người lao động vừa tan tầm đã phải dầm mưa, đón con, di chuyển vật vã, khổ sở từ trung tâm về nhà tận ngoại thành xa lắc trong cái lạnh.
Thông tin lúc 21h cùng ngày 26-9 mà chúng tôi có được từ một đơn vị chức năng của TP, đó là trận mưa chiều nay có lượng mưa lớn, đo được tại các trạm (quận 9, Gò Vấp, Tân Bình, Bình Thạnh) ở mức từ 103 – 135mm. Đây được xem là một trong những trận mưa lớn và diện rộng từ đầu mùa, gây ngập nghiêm trọng hơn 30 điểm.
Sài Gòn khi nào hết cảnh lần ngập sau sâu hơn lần ngập trước? Người dân Sài Gòn bao giờ cảm hứng trở lại với đặc điểm “chợt mưa chợt nắng” chưa xa đã nhớ.
Câu hỏi thật không dễ trả lời và có lẽ “ông trời” cũng chưa thể biết!
Theo Thái Bình

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bầu Đức "sập tiệm": Còn lại những gì khi bán tài sản trả nợ?


Trước mắt để tạo dòng tiền, cải thiện tình hình thì HAGL phải bán các tài sản các tài sản có thanh khoản như mía đường, thủy điện, bò sữa. Theo lãnh đạo công ty, nhiều khả năng HAG sẽ trả được 6.400 tỷ đồng trong tổng số 26.683 tỷ đồng dư nợ hiện tại.

Chủ tịch HAGL Đoàn Nguyên Đức. Ảnh: HAGL
Công ty của Bầu Đức sẽ còn lại những gì sau khi bán mảng mía đường, bò sữa, dự án bất động sản tại Myanmar, thậm chí 20.000 ha cao su tại Lào.

Mới đây tại Đại hội cổ đông thường niên, CTCP Hoàng Anh Gia Lai (HAG – HAGL) đã công bố kế hoạch bán tài sản để trả nợ.

Trả 6.400 tỷ đồng nợ ngân hàng

Tính đến 30/6/2016, tổng tài sản của HAGL là 51.105 tỷ đồng, nợ phải trả là 32.996 tỷ đồng. Hiện tại, phương án tái cơ cấu nợ của HAGL vẫn chưa có kết quả cuối cùng.

Tại thời điểm ngày 30/9/2016, HAG có 12.343 tỷ đồng nợ ngắn hạn và 14.340 tỷ đồng nợ dài hạn. Mỗi ngày công ty phải trả lãi vay ngân hàng lên tới 5,6 tỷ đồng.

Vì vậy, HAGL đang đối mặt với các vấn đề về thanh khoản và những vấn đề này chỉ có thể được giải quyết khi Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đồng ý gia hạn các khoản vay và cho phép HAG hoãn thanh toán vốn vay gốc và lãi vay.

Trước mắt để tạo dòng tiền, cải thiện tình hình thì HAGL phải bán các tài sản các tài sản có thanh khoản như mía đường, thủy điện, bò sữa. Theo lãnh đạo công ty, nhiều khả năng HAG sẽ trả được 6.400 tỷ đồng trong tổng số 26.683 tỷ đồng dư nợ hiện tại.

Cụ thể, HAGL bán Công ty Đường HAGL cho Tập đoàn Thành Thành Công với giá trị 2.200 tỷ đồng. Công ty đường nằm tại Attapeu, Lào bao gồm một nhà máy chế biến đường công suất 7.000 tấn mía/ngày, một nhà máy nhiệt điện, tổng vốn đầu tư hai nhà máy này là 1.400 tỷ đồng và diện tích trồng mía lớn khá lớn là 6.000 ha.

Chủ tịch HAGL Đoàn Nguyên Đức trả lời câu hỏi của cổ đông. Ảnh: HAGL
Ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT của HAG cũng cho biết là Tập đoàn đang trong quá trình bán 2 dự án thủy điện là Nậm Kông 2 và Nậm Kông 3 tại Lào với tổng giá bán là 2.800 tỷ đồng. Dự án Nậm Kông 2 sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm trong khi Nậm Kông 3 đã xây xong phần móng nhà máy. Tính đến cuối tháng 6 vừa qua, HAGL đã chi 2.535 tỷ đồng vào các dự án này. Theo các đồn đoán thì người mua đã đặt cọc 10% giá trị hợp đồng.

Toàn bộ tiền mặt thu về từ hai thương vụ này là 5.000 tỷ đồng và dự kiến các thương vụ sẽ hoàn tất trước cuối năm. Số tiền này sẽ được dùng để giảm nợ tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).

HAGL cũng sẽ sớm chuyển nhượng đàn bò sữa 7.500 con hiện tại vì tập đoàn đánh giá không mang lại lợi nhuận.

Bán rừng cao su không dễ dàng

Đối với dự án HAGL Myanmar Center, công ty cũng đang cố gắng bán dự án bất động sản này với giá trên dưới 10.000 tỷ đồng. Hiện tại, dự án Myanmar (Giai đoạn 1) tạo doanh thu khoảng 4 triệu USD/ tháng và lãnh đạo HAG ước tính từ năm 2017 trở đi, doanh thu hàng năm của dự án này sẽ đạt 50 - 60 triệu USD. Tuy nhiên, việc bán dự án bất động sản ở Myanmar cần nhiều thời gian.

Đặc biệt, bầu Đức cho biết, trong trường hợp xấu nhất, ngoài bán các tài sản trên thì HAGL có thể bán 20.000 ha cao su trong tổng số 38.428 ha cao su (tổng diện tích đất trồng các loại là 89.000 ha) tại tại Lào cho đối tác tiềm năng.

Hiện đã có một số đối tác lớn từ Trung Quốc đang muốn mua với giá 8.000 tỷ đồng. Nhưng việc bán rừng cao su sẽ vấp phải các thủ tục xin phép từ 2 Chính phủ Việt Nam và Lào nên việc bán dự án cao su rất khó khăn.

Hơn nữa giá cao su thành phẩm vẫn đang ở mức thấp và chưa có dấu hiệu đi lên, liệu có đối tác nào sẵn sàng bỏ vào đây số lượng lớn tiền như vậy.

Sẽ kinh doanh chính bằng bò thịt

Mặc dù là HAGL lên kế hoạch bán tài sản nhưng công ty vẫn muốn giữ lại mảng cốt lõi là cao su để chờ thị trường khởi sắc, dầu cọ và các diện tích canh tác nông nghiệp khác sau quá trình tái cơ cấu.

Như vậy, ngoài 38.428 ha cao su tại Lào mà HAGL chưa muốn bán hoặc rất khó bán thì công ty của Bầu Đức còn lại những mảng kinh doanh chính quan trọng nào.

Đó là mảng chăn nuôi, doanh thu từ việc nuôi bò thịt để cung cấp cho các lò mổ tại Hà Nội và TP.HCM đang chiếm tỷ trọng lớn nhất, 51% doanh thu của HAG. Quy mô đàn bò của HAG hiện khoảng 130.000 con.

Mảng cọ dầu, HAGL vẫn tiếp tục chăm sóc vườn cọ dầu và đã hoàn thành nhà máy chế biến cọ dầu với công suất 45 tấn quả/giờ, quý IV/2016 sẽ đi vào hoạt động chính thức.

Mảng kinh doanh bất động sản thì HAGL đã chuyển nhượng phần lớn sang cho Công ty An Phú vào năm 2013. Hiện nay, An Phú vẫn đang nợ HAGL lên tới 4.500 tỷ đồng.

Bất động sản cũng là nguyên nhân đem lại khoản lỗ 413 tỷ đồng sau nửa năm do HAGL thanh lý dự án bất động sản tại TP.HCM.

Ngoài ra, HAGL cũng dự kiến sẽ triển khai trồng các loại cây ăn trái tại Việt Nam, Lào và Campuchia nhằm tận dụng hết quỹ đất còn dôi dư của công ty.

(Zing News)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

Thăm thẳm đường về ( 6 )


6.
 
V
ào những năm đói khổ nhất sau chiến tranh, ở làng Vân Du này đã dần hình thành một lớp trung lưu mới. Dù nó ở trong cái khung đói nghèo muôn thủa nơi thôn ổ, so với số đông dân chúng thì cũng đã đỡ hơn nhiều. Người ta có thể nhìn thấy qua bộ dạng bề ngoài: áo quần lành lặn không vá chằng vá đụp. Những chiếc xe đạp phượng hoàng, thống nhất... Đôi ba người có chiếc Môbilét, Hon đa ga.
Bữa ăn trong nhà họ thi thoảng có thịt, cá và phần ăn độn không cao tới bảy mươi phần trăm như trước đây. Gạo đỡ hôi mục, bột mì đỡ những con mọt đen xì cứ hễ mở miệng bao là bay ra tới tấp. Bữa sáng không đến nỗi phải " Bạch định " nghĩa là nhịn ăn, đã có lưng mì sợi, dăm củ khoai lang để cho bộ máy tiêu hoá có công ăn việc làm, không sôi sục biểu tình vì lòng chay dạ tịnh. Những vị chức sắc đương quyền ở các cấp, công chức các ngành không nói làm gì. Bổ sung vào tầng lớp ấy là một số thương phế binh từ mặt trận trở về, sau những ngày dài nằm vạ vật ở các trại an dưỡng. Thêm nữa là số cán bộ về hưu non, hưu già mất sức. Đã đến lúc bộ máy công quyền được tiểu tu, thay cũ đổi mới những chi tiết quá hạn sử dụng, hoặc được dùng một cách miễn cưỡng bởi nhiều tình thế, hoặc được dùng cố, dùng thêm quá lâu.
Thành phần xã hội mới mẻ này là lớp đầu tiên xuất hiện ở nơi thuần nông, nơi mà từng lớp tiểu thương mới chỉ manh nha chưa rõ hình hài vào năm 1983 này.
Lão Đởm cũng là một trong lớp trung lưu ấy. Nếu tính tuổi thì phải vài ba năm nữa lão mới được nghỉ. Nhưng có một việc không bình thường xảy ra trong gia đình lão khiến lão phải nghỉ sớm trước thời hạn. Sau ngày giải phóng Miền Nam thằng con cả của lão được cử vào Nam công tác. Việc đó cũng bình thường như hàng vạn cán bộ, nhân viên từ Miền Bắc bổ sung cho những ngành, những cơ quan đang thiếu người từ phía Nam.
Không bình thường là ở chỗ thằng con lão không hiểu suy tính thế nào, vào Nam chưa đầy nửa năm nó theo người ta vượt biên ra nước ngoài. Điều này ngoài sự suy đoán của lão. Nó là đứa được ăn học, sinh ra và lớn lên trên đất Bắc, không có một áp lực nào khiến nó phải ra đi. Đời người không ai học hết chữ ngờ. Lão kể như mất một đứa con, không còn nó nữa. Đau hơn là bao nhiêu công sức của lão bấy lâu nay đổ xuống sông xuống biển. Còn ai người ta tin lão khi lão có đứa con trốn ra nước ngoài, phản bội tổ quốc? Trong việc lão phải về nghỉ sớm như thế này nó không thể là không có nguyên do chủ yếu. Mấy chục năm làm trưởng công an xã lão không lạ gì nguyên tắc làm việc theo ngành đó. Có những việc không thông qua hội đồng, thông qua uỷ ban, những người làm công tác an minh phải hiểu rất rõ.
Đứa con gái thứ hai lão cài cắm rất công phu, rút cuộc cũng không thành. Anh con rể đen như cột cháy, bề ngoài khoẻ như vâm đeo lon đại uý hẳn hoi nhưng lại rỗng ruột. Đi khám sức khoẻ bác sĩ nói anh bị nhiễm chất độc da cam. Vợ có mang mấy lần, cứ gần đến ngày sinh thai bị chết lưu. Đứa gần đây nhất nom như cục bột, ai cũng thích nhìn, Đùng một cái nó sốt li bì, rồi bị tháo lỏng, thuốc men kiểu gì cũng không cầm được. Người nó trông rõ từng mảnh sườn. Tóc trên đầu nó chỉ còn lơ vơ vài cái, trơ cái sọ xanh xám. Người ta cho uống thuốc chỉ tiếng đồng hồ sau nó đùn ra cả viên cùng thứ nước nhầy nhầy. Mẹ nó phát điên, đêm nào vào cữ gần sáng không còn ai thức trông là mò ra nghĩa địa. Bao nhiêu vòng hoa ở những ngôi mộ mới mẹ nó hăm hở ôm về chất lên mộ con. Người mẹ mất con cứ vừa múa vừa hát, nhảy xung quanh mộ con, cho đến khi khản tiếng lịm đi. Anh chồng chán nản xin chuyển ngành đi một tỉnh mãi trên Tây Bắc, vợ lão thương con gái, đón nó về nhà mình. Khi người ta thức thì nó ngủ, khi người ta ngủ thì nó hết khóc lóc, kêu gào lại la hét. Không khí trong gia đình lão không được lúc nào yên tĩnh. Lão bàn với vợ cho nó đi trại tâm thần, nhưng mụ không nghe.
Ngay cả thời chiến tranh mấy đẫn, đầu óc lão cũng không căng thẳng như lúc này. Đạn bom đe doạ còn có khi, có chừng, còn có lúc yên ắng. Nhưng đứa con điên dại không cho lão lấy một phút thảnh thơi.
Đứa con trai út lão đã bảo đi học lấy một nghề thiết thực. Làm Bác sĩ, ý tá cũng được. Hoặc đi làm công nhân công đồ kiếm miếng ăn cho chắc chắn, nó lại phởn lên. Tự dưng tự lành đòi đi cho bằng được vào cái trường văn hoá nghệ thuật. Mà học nghề gì cơ chứ? Học cái nghề hát chèo mới thật là vớ vẩn. Đàn ông con trai lại thích cái trò má phấn, môi son múa may trông đến là ngứa mắt. Đi đứng nói năng học ở đâu về, uốn éo véo von thực chẳng giống ai.
Đúng là cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha dạy có bao giờ khá được? Học hết khoá ra trường rồi đấy mà có nơi nào người ta nhận đâu? Người ta phân công lên miền núi thì lại không muốn đi.
Ngày ngày cứ đến bữa vác cái mặt về. Ăn xong mắt trước, mắt sau lủi mất. Không biết nó đi đâu? Xưa nay lão là người điềm tĩnh và lạnh tính, vậy mà có lúc cũng muốn phát điên phát rồ.
Lão ngơ ngác nhìn cây trái trong vườn mà nát từng khúc ruột. Hình như cảnh cũng tuỳ chủ mà nó úa tàn theo. Hàng cau trước nhà chết từ trong ruột, Đám lá rũ rượi, ban đêm nhìn giống hệt những bóng ma xoã tóc.
Mấy cây cam úa vàng, mùa này không có một quả nào đậu. Đám chuối buồng trổ ngang cây, ra đám quả còng quèo, quái dị. Còn trong nhà lúc nào cũng lạnh ngăn ngắt như có ma để lâu ngày không đem chôn. Ban đên cứ rậm rịch như có người trườn trên mái nhà.
Mới sớm hôm qua vợ lão khều ở trong gầm giường ra con cóc cụ to như cái ấm ủ. Mắt nó đỏ đòng đọc, miệng nó nghiến ken két. Vợ lão không dám đánh chết, cứ vái lạy nó lia lịa rồi kính cẩn đặt nó vào cái thúng mang ra mãi ngoài bờ sông cho nó đi nơi khác. Không hiểu bằng cách nào sáng nay ngủ dậy lão quờ chân tìm dép lại đụng ngay phải nó. Không biết da thịt nó bằng thứ gì mà chạm vào buốt như dẫm phải bọ nẹt. Chỗ ngứa của lão mỗi lúc mỗi xưng, ngứa không sao chịu nổi. Lão sực nhớ bên nhà lão Thước dạo nào có thứ rượu trị ngứa mang ở miền ngược về. Đã lâu lắm hai người không ngồi với nhau, nhưng vào lúc này cũng chẳng còn lòng dạ nào so vắn, đắn đo. Lão sai vợ sang hỏi. Mụ đã định đi, chợt nhớ mụ và vợ lão Thước mới to tiếng với nhau trong vụ gắp thăm chia phần phân phối chiếc lốp xe hôm vừa rồi, lão gọi giật lại.
- Bà ở nhà xử lý cái con cóc kỳ quái kia đi. Để tôi sang nhân tiện còn có việc. Cứ cho nó vào cái bao thật dày, loại bao gai ấy rồi lấy lạt cột chặt lại xem nó mò về được nữa không.
Lão tấp tểnh đi ra ngõ. Đức con gái điên ở trong buồng thấy bố đi khỏi vội chạy ra. Nó cứ chạy vòng quanh cái gầm giường múa hát: " Khỉ kho kho, ấy mấy khỏ khì khi. ới ... Chàng Hoàng tử kia ơi ... " Lão định quay trở lại lôi nhốt nó vào buồng. Nhưng bên chân ngứa quá, lão đánh liều. Đằng nào còn mụ ở nhà, mụ ấy sẽ lo được.
Nhà lão Thước không xa, nhưng gần nhà xa ngõ. Lão Thước ngõ trên, nhà lão ngõ dưới. Thông qua lối đi bờ ao là có thể đi tắt đến nhà nhau. Mùa này nước cạn có thể còn đi qua lòng ao mà vẫn khô ráo. Ngày còn làm việc trên xã, lối bờ ao là lối đi riêng của hai nhà. Bất kể nửa đêm gà gáy có công việc gì lão có thể đi theo lối đó không cần phải ý từ gì. Có những việc nhờ lối đi đó mà giữ được sự kín đáo thận trọng cần thiết. Việc làng xã có những việc vẫn cần tới sự thận trọng, tế nhị ấy. Nhưng từ ngày cả hai về nghỉ hưu, con đường ấy không còn đi lại được nữa. Cũng không hẳn là do đôi bên có va chạm mâu thuẫn. Đơn giản chỉ do tính lão Thước quá cẩn thận. Khu vườn nhà lão ba bề, bốn bên đã được rào kín như hồi rào làng kháng chiến. Lão mua vài trăm tre gai còn tươi về cắt ra chôn làm cọc rào. Người ta rào vườn thường buộc bằng lạt tre. Lão dùng toàn dây thép. Đến giờ thì đám cọc tre lên ánh xanh rờn. Chúng mọc vòi tới đâu lão vin buộc tới đó. Con gà con chó chui qua còn khó, huống chi con người. Cùng là ăn hương hoả nhà vợ, nhưng lão giữ còn hơn cả của tổ phụ nhà mình để lại. Cái mảnh vườn lão mua lại của bà chị dâu có đứa con đi tù, lão cũng rào dậu như thế. Suốt ngày lão cầm con dao đứng ở góc này một tý, góc kia một tẹo ngắm nghía. Chỉ một tàu lá chuối vàng vừa gục xuống là lão xén gọn, xếp vào gốc. Trong vườn mà sạch tinh tươm như ngoài sân. Có con chó nào mất nết đi ỉa sang vườn nhà lão lại lấy xẻng hốt ngay vào gốc cây lấp đất lại. Vườn sạch đến nỗi không có một thứ cỏ dại nào còn sót lại. Không biết giờ này mình tới nhà lão có ngồi nhà không, hay vẫn đang ở ngoài vườn.
Lão Đởm nghĩ: Con người ông ta chẳng coi muỗi dãn ra gì. Mình chỉ ở ngoài vườn chừng năm ba phút là không sao chịu nổi. Không bọ róm thì cũng bọ xít ngứa đến phát cuồng. Có gì hay ho ở cái vườn tạp ấy mà ông ta say mê đến vậy? Lâu thì mười, mười lăm năm. Chóng thì năm ba năm rồi tất cả cũng ra gốc đa còng. Đấy mới là miếng đất cuối cùng danh cho mỗi người ở cái làng này. Là nơi thiên niên vạn đại, không sợ mất phần. Dù chẳng ai muốn, thực ra cuộc đời rút cuộc vẫn là cõi tạm. Dung thân ở cõi người này phỏng được bao năm? Việc gì mà phải khư khư, chấp chấp nối nối để rồi cũng chẳng tới đâu?
Nếu không vì cái chân đang bị ngứa quái quỷ này lão đã quay về, từ lâu cả hai chẳng có gì để nói với nhau. Cái lối nghĩ một đằng làm một nẻo chỉ thích hợp khi còn cương vị. Khi cho riêng tâm tư mình, nó lại là món khó nuốt. Bụng dạ nhau thế nào biết cả, Nhưng trò chuyện thì lại khác hẳn. Nói đấy nhưng chưa hẳn là đúng. Y hệt những anh diễn trò biết hết bài bản của nhau. Ngoài miệng thì tâng bốc, nhưng trong dạ quá coi thường, coi kinh nhau.
Hình như hôm nay trong nhà lão Thước có khách. Ông ta cứ câu nhỏ câu to nhấm nhẳn không nghe rõ. Nhưng đích xác là có người. Nếu không giờ này ông ta không còn ngồi trong nhà, mà đã đứng ở cái xó nào trong vườn chuối rậm rì rồi. Lão Đởm lưỡng lự không biết có nên vào không? Nhưng rồi lão quả quyết: Nếu ông ấy có khách mình chỉ ngồi chơi một lát rồi về. Cốt nhất là xin ông ấy tý rượu thuốc bôi chỗ chân đau. Gần hết đời người lão chưa gặp tình trạng này bao giờ. Cũng có lần ở hầm thấy cặp rắn có chân như chân thằn lằn. Trong hầm tối om lão vô ý đụng phải. Nó chỉ trơn nhèo nhèo chứ vô hại. Thậm chí có một trong hai con ấy tợp một nhát vào cổ tay. Nó chỉ hơi nhói đau chứ không buốt như bây giờ. Lần đầu tiên lão thấy một con cóc to gớm ghiếc như vậy. Đúng là thời buổi lạ lùng, con vật người nuôi khổ công chăm sóc thì lại khó sống. Bọ hung, bọ xít chẳng ai nuôi thì lại phát triển hàng đàn. Những con vật không có ích cho con người hình như gặp thời phát triển sinh sôi...
Nhà cái ông Thước đến con chó cũng khác người. Có hai con một đen, một trắng. Con trắng dài như cái bơm, mõm nhọn như cái mũi dài ai ra vào không cắn chỉ ngửi ngửi rồi bỏ đi y như kẻ khinh người. Còn con đen ngắn một mẩu thì cực kỳ hung dữ. Vừa thoáng thấy lão Đởm bước vào sân nó đã phóng thẳng ra nhe răng gầm gừ. Nếu lão không có cây gậy ở tay thì chắc hẳn nó đã sơi cho một nhát rồi.
Ông Thước từ trong nhà vội chạy ra:
- Ông sang chơi! Ông không đánh tiếng, thành ra tôi sơ ý quá. Mọi khi thì chó tôi xích cả ngày, dạo này vườn có vài quả cam đám trẻ trộm ác quá mới thả để nó trông chừng... à cũng lâu rồi ông mới sang. Vẫn khoẻ chứ?
- Tôi cũng thường. Hôm nay vì cái chân này mới sang phiền ông đấy!
Ông Thước ngạc nhiên, nhìn bên chân bị ngứa của lão Đởm:
- Ông bị lâu chưa? Con gì cắn?
- Nào đâu có con gì, va phải con cóc thôi!
Lão Đởm bước lên hè không vào nhà ngay, ngồi luôn ở cửa. Ông Thước vội mở tủ lấy cái lọ nhỏ gói trong mấy lượt ni lông. Ông cẩn thận lấy một tý bông cuộn vào đầu tăm nhúng vào lọ, vừa đủ để thuốc ngấm vào đầu bông mà không rớt ra giọt nào. Lão Đởm lẩm nhẩm cám ơn rồi cầm đầu bông ấy miết nhẹ lên mu bàn chân. Lão hơi giật mình một cái vì xót. Cứ như thể chỗ đứt xát chanh hay muối vào. Chỗ bàn chân lão đang xưng, tự dưng lớp da bên ngoài nhăn lại. Có cảm giác chỗ ngứa đang dịu dần đi.
Bây giờ lão mới tĩnh trí để ý đến một người đang ngồi trong nhà. Anh ta ngồi trên chiếc ghế dựa xoay lưng ra phía lão. Tự dưng lão chột dạ: Đúng là nó rồi. Chính cái thằng mà cách đây sáu năm lão ký giấy cho nó đi cải tạo tập trung! Nghe nói nó trốn trại, bỏ ra nước ngoài rồi cơ mà? Nó đến đây không có gì làm lạ, vì ông Thước là chú ruột nó. Tốt xấu thế nào ruột thịt không bỏ nhau được. Nhưng gặp nó bất ngờ thế này là điều lão không tính đến. Liệu nó có biết chuyện mình xử lý với nó trước đây thế nào không? Nó có ý oán hận gì không? Nếu biết nó đang có mặt ở đây thì ban nãy mình đã không vào. Thôi thì cứ từ từ xem nó có biểu hiện thế nào. Lão không ngờ thằng này đứng lên, bắt tay lão bằng cả hai tay:
- Bác khoẻ không?
Đôi mắt lành lạnh như mắt cá của lão thản nhiên như không:
- Tôi vẫn thường, anh vừa về.
Gã đáp:
- Cháu cũng vừa về tới, chưa kịp đi đâu. Vào chỗ chú cháu trước đã.
Lão cười gượng:
- Thế là đúng quá rồi còn gì. Anh không đến đây thì còn đi đâu? Chán các chỗ rồi mới đều đến còn ra sao?
Ông Thước nhăn mặt, cái đầu lúi cua của ông tóc tựa hồ như dựng cả lên:
- Cái đó tuỳ các cháu, tôi không bó buộc. Ông ngồi vào bán uống chén nước đã. Cũng đã lâu mới gặp.
Lão Đởm toan kiếm cớ xin phép về, nghĩ thế cũng bất tiện đành ngồi lại. Trông lão thấp thỏm không yên.
Ông Thước rót đưa mời chén nước, lão nâng trên tay, còn chưa uống đã nghe ông Thước nói giật cục:
- Tôi cũng chẳng dấu ông. Thằng này nó là thằng có tài mà không có đức. Nó nghe tôi, giờ đâu đến nỗi phải lên mãi trên xó rừng. Khổ nỗi mẹ rong con, đòi gì cũng chiều. Giờ thì quá mù ra mưa...
Lão Đởm thoái dạ. Làm sao ông này lại nó vỗ vào mặt nó như thế? Con cháu thì con cháu thực, nhưng nó đâu còn trẻ con mà nói như vậy? Hay là ông ta có ý duỗi ra? Sợ thằng cháu về đòi lại mảnh vườn mà chính ông ép mẹ nó phải bán rẻ cho mình?
 Gã ngồi lặng người. Bao năm xa nhà mong mỏi gặp lại tình cảm ruột thịt, thế mà trước mặt người khác, ông chú lại nói như hắt nước đổ đi! gã đã định bỏ qua không nói. Gã không lạ gì tính nết ông chú ruột của mình. Lúc nào ông cũng đứng trên quan điểm lập trường, trong bụng một bồ nguyên tắc. Nhưng thử hỏi trong tình cảm ruột thịt ông đối xử với đứa cháu mồ côi là gã, ông đã làm được những gì ngoài việc chỉ trích, mạt sát? Từ khi gã còn bé dại cho tới giờ ông đã bao giờ để mắt xem nó no đói thế nào, cho nó được manh quần tấm áo hay quyển vở chưa? Ông lấy tư cách gì mà răn dạy? Nghĩ trong bụng như thế, gã vẫn nói:
- Hoàn cảnh của cháu ai nói thế nào chẳng được. Cơ cực từ tấm bé, oan trái cũng không phải lần đầu. Đối với cháu việc đó giờ không quan trọng nữa. Việc dù sao cũng đã qua, tốt xấu cháu cũng đã chịu đủ. Không phải cháu muốn thanh minh, trình bày vì bây giờ hai ông cũng đã về nghỉ cả rồi. Các ông cũng không thể thay đổi được điều gì trong quá khứ. Chỉ có điều từng ấy năm cháu cũng không hiểu cụ thể sự việc ngày đó như thế nào. Cháu muốn dù sao nó cũng được giải toả trong lòng. Nếu không gặp bác Đởm ở đây, mai cháu cũng sang bác chơi, hỏi bác câu chuyện...
Lão Đởm nhíu mày:
- Anh định hỏi tôi? Chẳng nhẽ hồi đó tự nhiên người ta bắt anh? Xử lý thế nào là do vụ việc anh gây nên, có quan hệ gì đến địa phương? Sau này người ta có thông báo về xã chúng tôi cũng chỉ biết thế thôi. Có chú anh đây, xã không làm gì nên tội cho anh...
Ông Thước cau mặt:
- Ông này hay thật. Việc gì ông phải trình bày với nó. Nó làm nó chịu. Làm gì thì nó biết. Thế bây giờ anh định về đây chất vấn chúng tôi có phải không? Thối như đống cứt đã lấp đi rồi, anh lại muốn bới lên à?
Lão Đởm vội đấu dịu:
- Thôi ông đừng nóng. Dù gì bây giờ cũng là chuyện trong nhà. Anh ấy thắc mắc thế cũng là đúng. Mình không nắm được mình không nói, mà nhân đây tôi cũng nói để anh rõ. Thực ra anh cũng không oan uổng gì. Nhiều đứa hồi ấy chỉ không có điểm ghi trong sổ chấm công hàng ngày ở hợp tác xã, bỏ làng đi lang thang cũng đủ điều kiện để cho đi cải tạo rồi. Không tội gà cũng tội vịt. Chẳng anh nào oan! Bây giờ Nhà nước cho về, tốt nhất là lo làm ăn đừng giở chuyện cũ mà rách việc!
Ông Thước hạ giọng, nói mát:
- Tôi cứ ngỡ anh đi học tập giờ về đã biết điều hay nhẽ dở. Ai biết anh vẫn giỏi lý sự như ngày trước, chẳng coi ai ra gì! Thôi thì cũng tuỳ. Đoạn rồi sau này, tự anh hãy lo, kẻo lại oán trách người khác!
Gã đắng ngắt trong miệng. Còn gì để nói với chú nữa đây. Từ lúc gã đến ông không một lời thăm hỏi cuộc sống gia đình trên Xuân Quang thế nào. Ông cũng không hỏi gã dự tính sinh sống làm ăn sắp tới ra sao. Lúc lão Đởm chưa đến, gã hỏi chuyện, ông chỉ ậm ừ cho xong việc. Bà thím thì cứ quanh ra quanh vào nghe chuyện. Có lẽ bà nghĩ gã về là để hỏi chuyện nhà cửa đất cát. Một hồi không thấy gã đả động gì đến bà mới cắp thúng đi chợ. Bà chỉ bảo: " Chú cháu ngồi chơi, tôi đi chợ một chốc ". Bà cũng không có ý mời gã ở lại ăn cơm. Giá như lúc đó bà có mời thì sau câu chuyện vừa rồi gã cũng sẽ không ở. Làm sao nuốt được miệng cơm vào bụng trước những lời lẽ của ông chú vừa rồi?
Ông Thước quay sang hỏi lão Đởm:
- Tháng này thực phẩm ông đã mua chưa? Tem của tôi vẫn còn nguyên. Đi từ đây lên huyện để mua vài ba lạng thịt, cân đậu thì thuốc chẳng nặng bằng thang!
Lão Đởm bảo:
- Tưởng hôm nọ cậu Cấn nói với ông rồi. Năm ba người gom vào với nhau, nhà anh nào có việc thì mua trước. Nếu không cắt lượt đi mua về chia nhau...
Ông Thước cười nhạt:
- Cái cậu ấy ngày trước không mấy ngày không có mặt ở nhà này. Mình về một cái, hàng tháng chẳng thấy mặt. Có gặp ngoài đường cứ lơ lơ... Tôi cũng không muốn nhờ!
Rồi hai người quay sang chuyện ban bệ, cơ cấu ở địa phương. Chuyện ông này, bà nọ làm như không có gã ngồi cùng. Gã thấy mình vô duyên nên đứng dậy xin phép đi mỗi nhà một chút. Ông chú mát mẻ:
- Vâng, anh đi!
Bà Thước đi chờ về hai ông già vẫn chưa dứt câu chuyện. Hai người nói vừa đủ nghe, như thể nói thầm với nhau. Bà cũng chỉ nghe được câu được câu chăng. Hình như vẫn là câu chuỵên của thằng cháu trên ngược vừa về. Bà hỏi ông:
- Thế ông không bảo cháu nó ở lại ăn cơm à? Tôi cũng có mua được mớ cá đây để hai chú cháu uống rượu.
Ông hừ hừ:
- Vẽ chuỵên. Không bảo thì nó cũng ăn ở đâu được mà chả về đây? Bà cứ lo liệu việc của bà, việc ấy không phải lo.
- Là tôi bảo thế. Bảo nó một câu khỏi phải tội!
Ông lừ mắt không nói gì. Bụng dạ bà thế nào ông quá biết. Đúng là ngọt nó lọt tận xương. Tình cảnh chú cháu ông giờ ra nông nỗi này phải không có phần do từ ở bà?
Bà hiểu bà không nên góp chuyện vào lúc này. Cứ nhìn ý tứ của ông ấy là bà biết, bà lẳng lặng đi xuống bếp.
Lão Đởm nói tiếp câu chuyện còn dang dở:
- Ngày ấy nếu không được ông cho phép tôi đã không đưa nó vào danh sách đề nghị đưa đi cải tạo. Trên có chủ trương, nhưng các đối tượng cụ thể lại do địa phương, chắc ông còn nhớ?
Ông Thước nheo nheo mắt, ông có thói quen trước một vấn đề hóc búa hay phức tạp ông thường nhăn trán và nheo nheo mắt như thế:
- Ông nói thế chẳng hoá ra tôi muốn đưa thằng cháu đi tù chứ gì?
Lão Đởm cười nhạt:
- Không, tôi không có ý nói thế. Nhưng danh sách lập xong tôi có đưa ông xem. Thấy ông không ý kiến gì tôi mới gửi đi. Chẳng phải nghiễm nhiên ông đồng ý rồi sao?
Ông Thước phẩy tay:
- Tôi nhớ là ông có đưa. Nhưng hồi đó công việc bận tối mắt tôi có để ý xem kỹ đâu. Hơn nữa tôi nghĩ việc đó thuộc ngành dọc của các ông. Xã chỉ có ý kiến tham khảo...
Lão Đởm khoát tay:
- Mà thôi, những việc ấy giờ có ai truy cứu đâu. Đánh chuột đổ lúa cũng là chuyện thường, nếu bảo oan còn khối đứa oan hơn nó. Như cu Du nhà Du lành như củ, chả điều tiếng gì. Nó chỉ có mỗi tội có mặt ở nơi xảy ra vụ án. Thế mà cũng đi gần bốn năm mới được về. Còn thằng cháu ông đi chụp ảnh không phim, bị bắt đến mấy bận, người ta gửi giấy về xã. Còn việc nó quan hệ với bọn nhân văn giai phẩm đưa về nhà không báo cáo ai. Tụ tập với những thành phần khả nghi viết bài gửi các báo nói xấu địa phương, đả kích cán bộ. Tù thế còn là ít. Hơn nữa. Hồi ấy ông chả bảo nó chưa chắc đã là máu mủ nhà ông. Anh ông mất, tự dưng để người ngoài xen vào hương hoả của các cụ là điều ông cay cú lắm là gì?...
Ông Thước vội ngắt lời:
- Hồi ấy chẳng qua là tôi bức tôi nó thế. Cho nó đi một thời gian cũng được. Có thế nó mới tỉnh ngộ, còn nói không chưa chắc nó đã nghe. Tôi đã bảo nó: Chữ nghĩa nó ghê lắm. Đã bao bài học nhỡn tiến mà anh chưa thấy hay sao? Không gì bằng có ngành có nghề để đảm bảo cho bản thân. Còn thích thì chỉ nên làm chơi thôi, không ai cấm. Đằng này nó ham bỏ hết việc cơ quan. Thích đi thì đi, thích về thì về. Ông bảo liệu có cơ quan nào người ta chấp nhận người như nó? Họ hàng nhà tôi ông còn lạ gì, ông giáo Ngọ văn hay chữ tốt nổi tiếng cả vùng, mang danh là nhà văn nhà vẻ mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, công nợ tứ bề thì ông bảo ngôi gì?
Phải có duyên có phận mới theo được nghiệp chữ nghĩa văn chương, trăm vạn người may ra mới được vài người nên danh nên giá, có tước có vị. Đâu phải ai muốn cũng được? Nói cháu không nghe. Bây giờ về lại có ý oán trách. Nó nghĩ thế nào mặc nó. Tôi cứ thẳng tôi làm. Tôi không việc gì phải trình bày với nó.
Lão Đởm đỡ lời:
- Nhưng dù sao thì cũng máu mủ ruột thịt. Khi ông nằm xuống nó vẫn phải có mặt. Ông không nên để nó oán hận làm gì. ở nơi khác bắt nó, ta cứ bảo địa phương không dính dáng gì. Xử lý thế nào là do ở trên. Thế chẳng hay hơn ư? Nó đã có ý tìm hiểu thế nào nó chẳng có lúc hỏi lại ông. Ông cứ thế mà nói, khỏi rắc rối làm gì!
Ông Thước đột ngột đưa ánh mắt nhìn khuôn mặt gẫy, có hàng mi rậm của ông bạn già:
- Không lẽ hồi ấy xử lý oan tất cả mười mấy đứa?
Lão Đởm giật mình:
- Sao lại tất cả đều oan? Sau này đi trại trung ương chúng nó mới chịu nó ra. Người ta đã xử thằng Việt tù chung thân ông không nhớ sao? Ngay từ đầu chúng khai thì vụ việc đã không phức tạp thế. Bốn năm sau, khi ở trại người ta giáo dục chúng nó mới thành khẩn khai ra thì việc đã lỡ rồi. Cũng nhiều đứa thiệt, nhưng ai bảo chúng biết mà không nói? Nhiễm cho lắm chuyện kiếm hiệp, học thói quân tử Tần rồ điên thì khổ còn kêu ai? Mà thằng cháu ông là đứa đầu têu cho bọn thanh niên làng. Nó đón người về mở lò dạy võ đêm nào cũng tập huỳnh huỵch ở ngoài bãi cát, cả làng biết, không dẹp hồi ấy, sớm muộn lại không loạn với chúng à?
Ông Thước gật gù:
- Nhưng hồi đó xử lý cũng hơi nặng. Đáng lẽ chỉ nên gọi lên nhắc nhở, bảo ban chúng nó. Bọn trẻ người, non dạ thích học đòi. Ta lại dùng biện pháp hơi quá.
Lão Đởm có ý không hài lòng:
- Thời chiến, làm gì có thời gian. Chỉ riêng việc tuyển quân, chính sách hậu phương đã mệt rồi. Còn tuần canh gác, thanh niên trai tráng có năng lực thì ra chiến trường cả. Cán bộ cơ sở thì không có chó bắt mèo ăn cứt. Ông bảo công an xã mà mấy cậu như thằng Khuê nói chẳng ra hơi, lòng không khập khiễng như thế, giữ nhà còn không xong, hỏi làm được việc gì? Vậy nên sai sót là không thể tránh khỏi. Chung quy tội lỗi sâu xa cũng bởi tự chiến tranh mà ra...
Ông Thước đã định cắt lời, xong ông lại thôi. Đổ tại chiến tranh và hoàn cảnh cũng chưa thật đúng. Thế còn lòng dạ con người, tính đố kỵ, ganh ghét kể cả sự nanh ác thì sao? Ông không lạ hồi bà Thức và lão Đởm là hai cánh vế đối địch. Cánh bà Thức phong trào ba đảm đam, đang lên như cồn, nắm giữ các công việc chủ yếu của xã, luôn làm lão Đởm hậm hực. Hai cánh này không bỏ qua cơ hội để lật đổ nhau. Hoặc ít ra cũng làm cho đối phương mất mặt. Cả chuyện thằng Huệ cháu ruột lão Đởm nữa. Nó mới ra trường làm cán bộ tư pháp huỵên. Hồi đi học nó theo đuổi con Vân bao nhiêu năm mà không lấy được vì nó nom xấu trai, học dốt. Khi còn Vân về làm cháu dâu ông rồi nó vẫn chưa từ bỏ ý định. Con Vân làm đơn bỏ chồng nếu không phải thằng Huệ lôi kéo thì còn ai vào đó? Thằng này chắc nghĩ không được ăn thì đạp đổ. Mà biết đâu trong việc thằng cháu ông đi tù lại chẳng có bàn tay nó nhúng vào? Nhiều lần ông định hỏi thẳng lão Đởm về chuyện này, nhưng lại nghĩ nó chẳng mang lợi ích gì, lại thôi. Tất cả mờ mịt trong nhiều định kiến, giờ có giở ra cũng không ích gì. Nhưng dù sao cũng đánh động để lão Đởm biết ông không phải ngây thơ đến mức nói thế nào cũng được, cũng tin.
- Cái anh Huệ nhà ông thế mà gớm. Nghe nói sắp tới đây sang làm Phó Chánh  án huyện phải không?
Có lẽ lão Đởm chưa rõ thâm ý của ông Thước. Thấy nói thế, đáp luôn:
- Vâng, tôi cũng có được nghe. Con giòng cháu giống mà lại. Bố nó ngày trước cán bộ tỉnh, giờ con cán bộ huỵên thì có gì lạ?
- Vận nhà nào cũng thế thôi. Thịnh mãi rồi cũng đến lúc suy. Phúc hoạ ở đời biết thế nào mà nói!
Đến đây lão Đởm hiểu ý ông Thước nói gì. Lão cũng mềm mỏng:
- Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy ông ạ. Biết đâu mà lo gần lo xa. Thôi cũng muộn tôi xin phép ông tôi về...
Ông Thước không giữ lại, ông cầm chiếc nón mê đội lên đầu ra vườn ngay. Miệng ông lẩm bẩm:
- Quân họ Đặng này vừa gian vừa đểu thật!...
Bà Đởm người cao ngỏng, đầu to như cái giành, mũi sư tử lông mày sâu róm. Tướng mạo của bà có dáng đàn ông, võ quan hơn là một mệnh phụ phu nhân. Nếu mẹ đẻ ra bà không có hơn mẫu vườn và sinh con một bề chưa chắc lão Đởm đã chịu lấy bà. Đấy là phần của nổi ai cũng nhìn thấy được. Cộng thêm vào năm gian nhà ngói. Phần của chìm người ra cũng chỉ đoán già đoán non. Nhưng chắc chắn là phải có, bởi vì ngay sau ngày ông Đởm làm đám cưới, bà mẹ vợ mua luôn cho chiếc xe đạp ngoại sít téc linh. Thời ấy cả vùng mới chỉ có hai chiếc của nhà Chánh tổng Lâm và ông Thừa phái làm việc chỗ dinh quan huyện.
Ông Đởm mẹ mất sớm, bố làm nghề đánh nhủi. Quanh năm ông cụ đánh độc cái quần đùi, áo cuộn trên đầu vảc nhủi đi khắp đồng trong, đồng ngoài lần mò tôm cá nuôi con, da mặt, da tay, da lưng lúc nào cũng đen bóng như thoa dầu. Chỉ có đôi mắt trắng nhợt nhạt là dễ nhận thấy từ xa. Hình như tóc cụ không mọc, hoặc mọc quá chậm vì không ai thấy ông cụ cắt tóc cạo râu bao giờ. Cho đến năm đã ngoài bảy mươi râu cụ cũng không hề có lấy một sợi.
Ngoài đôi mắt ra ông Đởm không có điểm nào giống bố. Ông thừa hưởng làn da trắng mịn của người mẹ và mái tóc loăn xoăn rất tự nhiên. Người trong làng kể rằng một đêm gió mưa có một người đàn bà trẻ đẹp, không rõ nguồn cơn từ đâu về ngất lịm trong cái miếu hoang ở ngoài đồng. Gần sáng như mọi bận, ông cụ Đang bố ông Đởm bây giờ vác nhủi đi ngang qua. Ông mang người đàn bà ấy về nhà. Ngôi nhà hẻo lánh gần mom sông nên ít người qua lại. Tám tháng sau người vợ nhặt này sinh cho ông một thằng con trai là ông Đởm bây giờ. Có người bảo đứa con ấy người mẹ kia mang sẵn trong bụng trước khi gặp ông Đang. Còn ông Đang bảo rằng con ông sinh thiếu tháng. Bí mật ấy chỉ người đàn bà này mới biết. Bà mang luôn nó xuống mồ sau đấy một năm vì bị rắn cắn, không kịp cứu chữa.
Xuất thân như thế, nên ông Đởm tính cách khác người. Ông tính toán cẩn trọng, tình cảm kín bưng. Không ai đoán được khi nào ông vui hay buồn. Cũng không ai biết ông dự tính điều gì trong đầu. Luôn luôn có vẻ mặt thờ ơ vô cảm với xung quanh. Nhưng đôi mắt có cái nhìn lành lạnh không bỏ sót một việc gì xung quanh. Như mắt cá nhìn thấy đáy nước.
Ông không yêu vợ đến đắm đuối mà cũng không phụ bạc. Vợ chồng ông sống tự nhiên như nhiên, như những viên gạch xếp chồng lên nhau. Không thú vị cũng không khó chịu.
Ông công tác xã hội thuận lợi một phần lớn do bà. Đúng là có thực mới vực được đạo. Cán bộ xã lúc bấy giờ nào đã có trợ cấp, lương bổng gì? Mỗi tháng vài đồng chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Nhiều người gia đình khó khăn xin nghỉ công tác. Những người còn theo đuổi là vì tin vào một ngày mai tươi sáng hơn. Cái ngày mà người ta có thể làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu! Mọi người bình đẳng, không có áp bức bất công, không có người bóc lột người. Không có hố sâu ngăn cách giàu nghèo. Mọi người coi nhau như anh em, hoan ca trong thế giới đại đồng. v.v... Ngày đó là ngày nào? Bao giờ đến thì chưa ai chắc chắn, nhưng đều tin nó sẽ đến. Có thể là sau ngày đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất Nhà nước, hoặc sau đấy vài chục năm. Và ngày đó sẽ là người xứng đáng được hưởng ở những vị trí vinh quang, hãnh diện...
Nên bất cứ chủ trương, chính sách gì ông cũng áp dụng thẳng băng. Ông gạt mọi trở ngại trên con đường phấn đấu của mình. Có thể coi ông như lớp cán bộ mẫu mực của thời kỳ này. Ông cho là mình không có gì phải áy náy, phân vân vì những việc đã qua.
Cơm tối xong bà Đởm mang theo bọc trầu nói là đến khuya mới về. Bà không nó là đi đâu, ông cũng không hỏi. Vì ông bà không mấy khi trò chuyện với nhau. Nhưng ông biết bà đi đâu. Con mẹ Tú ở xã bên gần đây nổi đồng, người đến xem rất đông. Nhưng người ta chưa dám lên đồng ban ngày vì những đợt trấn áp dị đoan mấy năm trước đây chưa hết ám ảnh về nỗi sợ hãi.
Gia sự nhiều việc bấn loạn vừa rồi khiến bà Đởm không yên tâm, người trần mắt thịt, làm sao biết huyền cơ của tạo hoá? Bà muốn gọi hồn bà cụ thân sinh để hỏi về mồ mả, đất cát thế nào mà mấy năm liền toàn gặp những điều xui xẻo. Lại thêm sự việc con cóc kỳ lạ vừa rồi khiến bà hoang mang. Bà không hỏi ông vì trước nay ông luôn đã phá và không tin những chuyện đồng bóng, bói toán. Nếu ông không nghe lại nói những lời báng bổ thì bà có đi xem cũng không linh nghiệm.
Rất may là anh con trai út đi học hát chèo về, khéo mồm thế nào mà nó dỗ được chị nó đi trại tâm thần bên Gia Lâm. Bà mới rảnh tay mà đi được. Cũng thương con, dù sao sang đó nó được thuốc thang biết đâu khỏi bệnh? Bà biết ở đấy bệnh nhân được cai quản cũng không khác trại tù bao nhiêu. Nhưng dù sao cũng còn hơn để nó ở nhà, bệnh mỗi ngày thêm nặng.
Bà bấm đèn pin lom khom đi ra ngõ. Những người cao to quá cỡ thường có dáng như thế. Nhất là những người vừa cao lại vừa gầy. Ông Đởm trông theo thấy dáng vợ y hệt bà mẹ đẻ ra bà, trông giống một cây khô cụt ngọn hơn là một con người.
Ông chốt chặt then cổng đi vào trong nhà. Có lẽ cổng ngõ thế này cả vùng không ai có, nó được bao bọc trong lớp rào kín dày bằng những cây ôrô gai chĩa ra tua tủa. Có cảm tưởng một con chó con cũng không chui lọt.
Buổi gặp thằng cháu ông Thước sớm nay khiến ông nghĩ ngợi. Việc tưởng như đã quên đi rồi, hôm nay bỗng nhiên gợi dậy. Liệu nó có đến đây nói khinh nói rẻ hoặc gây sự với ông không? Ông tin là nó không dám như thế. Một thằng đã một lần va chạm, hiểu thế nào là luật pháp và sự trừng phạt, chắc không dại gì ra mặt trả thù cá nhân. Nhưng không lẽ nó cứ âm thầm chịu đựng sự oan trái suốt đời? Việc này ông lại không thể thổ lộ hoặc trao đổi với bất cứ người nào, kể cả ông Thước.
Ông cảm thấy sợ, nhưng cứ thấp thỏm trong lòng. Cả nhà đi vắng, ngôi nhà trong đêm lạnh như dưới mồ đá. Vì vườn nhà ông quá rộng nên sinh hoạt cách biệt với hàng xóm láng giềng. Mà lâu nay, từ ngày ông nghỉ công tác có còn ai lui tới nữa đâu? Người đời là thế đấy. Người ta phù thịnh chứ mấy ai phù suy? Ông hết đứng lại ngồi, không có chủ định, ông mở tủ lấy ra con dao nhỏ. Một con dao cán gỗ, dài chừng hơn hai mươi phân, lưỡi dao mỏng, bằng thép không rỉ. Nó chỉ tốt cho việc dọc giấy, ăn hoa quả. Người ta bán nó đầy các quầy tạp hoá, nom lành hiền vô hại không có dáng dấp gì là thứ hung khí giết người. Vậy mà nó đã có thời gian dài nằm trong kho lưu trữ tang vật vụ án. Mãi sau này, nhờ giám định vết thương, kết luận hình sự người ta mới loại bỏ nó và trả nó lại cho, hồi ông làm trưởng công an xã. Không ai bịa đặt, hoặc tang chứng giả. Đơn giản chỉ vì cái xà cột của ông bị thủng một lỗ, con dao rơi ra ngoài dây vào vũng máu. Một người nào đó tình cờ tìm thấy nó. Rồi người ta đưa nó vào tang vật vụ án. Nếu như lúc đó, ông cải chính lại xuất xứ của con dao thì vụ án đỡ phức tạp đi rất nhiều. Sẽ bớt đi số người bị bắt năm đó nằm trong diện khả nghi. Cháu lão Thước sẽ không dính dáng gì vào vụ án. Và nếu như thế, nó bị bắt vì một ngẫu nhiên nào đấy trên Lạng Sơn sẽ không bị người ta di lý về. Nó chính là chủ nhân của con dao rọc giấy mà một lần làm sổ sách kê khai hộ tịch hộ khẩu ở nhà nó bà Thức mẹ nó đưa ông mượn ông bỏ vào xà cột và quên luôn.
Vì sao ông không cải chính?
Lẽ thứ nhất không ông trưởng công an xã nào lại muốn người khác nhìn mình với con mắt coi thường. Đi khám nghiệm hiện trường đã không phát hiện được điều gì lại luộm thuộm rơi vãi đồ đạc vào nơi xảy ra vụ án! Nếu ông nhận con dao lúc đó là của mình rơi ra thì sẽ là trò nực cười cho những cái miệng ác ý thường hay xì xào sau lưng ông. Lẽ thứ hai, bà Thức bí thư gần đây tỏ vẻ không ưa ông ra mặt. Chuyện ngày xưa ông theo đuổi tán tỉnh bà không xong, quá khứ, không nói lại làm gì. Khi ông đã có vợ con và chồng bà mới mất. Tất cả hoạt động trong vùng tạm chiến nên thấy chiều hướng không thuận ông đã từ bỏ ý nghĩ ấy từ lâu. Cuộc sống cái chết bất kể lúc nào cũng có thể ụp xuống khiến người ta không mấy nặng về tình cảm, nhất là tình cảm trai gái. Mà nặng về lý trí hơn. Chỉ cần một quả moọc - Chê vu vơ nào đó rơi trúng hầm, hay một kẻ phản bội chịu không nổi tra tấn đột ngột chỉ hầm, là chấm dứt cuộc đời.
Hai bên mâu thuẫn hoàn toàn vì lý do khác mới xảy ra gần đây. Bà không hài lòng với thái độ coi thường phụ nữ của ông. Phong trào ba đảm đang của xã đang nổi như cồn do bà gây dựng luôn có cái nhìn chế nhạo của ông. Những lời nói của ông ở chỗ này, chỗ khác đã đến tai bà.
Khi không còn sự thông cảm đôi bên thì sự việc theo chiều hướng khác. Đã nhiều lần bà đưa ra cuộc họp chi bộ phê bình ông đã có những lời thiết xây dựng. Tệ hơn bà yêu cầu ông làm rõ vụ mất trộm kho phân đạm của hợp tác xã, vì sao điều tra gần đến nơi mà lại không tìm ra thủ phạm? Có phải ông nương nhẹ và che đậy cho người nhà dính vào vụ này dong túng, thậm trí làm tay trong cho kẻ xấu? Thanh tra trên huyện về, không rõ ông tác động thế nào người ta cho vụ án chìm luôn? Gần đây nhiều người trong xã còn có dự luận ông ăn của đút lót của những đối tượng đảo ngũ trốn về địa phương. Mỗi lần cấp giấy thông hành cho người trong xã đi làm ăn xa, chứng nhận hồ sơ giấy tờ cho con em trong xã đi học, ông đều vặt người ta một chút. Số tiền tuy không nhiều, nhưng với tư cách của người cán bộ, đảng viên trong hoàn cảnh thời chiến này là không thể được! Bà gọi đó là cách bòn rút xương máu, mồ hôi, nước mắt nhân dân. Nghe nói bà còn trực tiếp gặp bí thư huyện uỷ để phản ánh tình hình. Người ta chưa động đến ông là vì chưa có bằng chứng cụ thể. Và cái chính là chưa tìm được người thay ông làm việc này. Một công việc ngay thời bình cũng không mấy người đảm đương được ở một xã nhiều phức tạp, lại đông dân như xã này.
Có người nói bà đang tìm cách thay ông bằng người khác. Không ngờ con mẹ gái goá lại to gan! Không đời nào ông chịu tuân phục. Mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra nhũn nhặn, sốt sắng. Ông tự nhủ đàn bà sâu sắc đến mấy cũng chỉ như cơi đựng trầu! Cứ trồng tre uốn gậy, thế nào rồi cũng có lúc. Cái ý định đưa ông em cậu bà thay vào vị trí của ông thì hãy chờ đấy! Bà có thế lực của bà ở địa phương, dây dợ trên huyện, thì ông đâu có kém? Ông đâu phải trên không chằng, dưới không rễ. Chẳng qua là không muốn phô trương thanh thế lộ liễu. Chính trị có luật chơi riêng. Không phải lúc nào cũng bày ngửa bài trước thiên hạ. Mà phải có quân đánh quân chờ. Một con mẹ chưa hết cấp II làm sao thi tài, đấu trí với ông được?
Khi người ta đưa ông con dao ông đã suýt buột miệng thốt ra là con dao của mình. Ma xui quỷ khiến thế nào ông đã lặng im, không nói gì khi ấy. Buổi sáng hôm sau ông lên huyện báo cáo tình hình. Ông gặp thằng Huệ cháu ông, Nó khi này đang ngúng nguẩy với vợ ở quê và ra mặt đi lại với con Vân vợ thằng Khải. Nó hỏi chuyện ông về vụ án. Nếu nó là người ngoài, không phải cán bộ phòng tư pháp ông đã không nói. Nghe xong nó bảo:
- Thằng Tăng trước đây có quan hệ với vợ nó, thằng này ghen kinh khủng. Hai bên đã to tiếng với nhau mấy lần. Vụ này nó dính vào không có gì khó hiểu. Có điều chú phải làm cho chắc, dù sao nó cũng là án mạng không vội kết luận được đâu!
- Thì tao cũng chỉ làm đúng phận sự của mình. Tao lợi lộc gì mà làm sai khác đi?
Nó nhếch mép cười rồi ghép tai ông thì thầm. Lão Đởm lúc ấy càng thêm tự tin vào việc mình làm.
Rồi vụ việc khuất lấp từ đó đế nay. Lão không ngờ gặp lại gã. Lão thấy nó có vẻ lầm lì rắn rỏi hơn ngày trước. Vẻ công tử, học trò ngày nào không còn dấu vết gì trong con người này. Lão đã từng nghe tiếng đồn thằng này một lần trốn trại, cầm đầu một băng cướp trên tàu Hà Nội - Lạng Sơn. Chúng nó bề ngoài giả dạng buôn thuốc lá sợi, kỳ thực chúng làm gì thì ai biết được? Miệng lưỡi thế gian, một đồn mười mười đồn trăm. Lão cứ hình dung ra gã có tướng mạo kỳ quái. Mặt nó phải sẹo chằng ngang, chéo dọc, săm trổ đầy người. Chứ không phải cái vẻ buồn ngẩu ra như thế kia. Hay nó rắn giả lươn, giả chết bắt quạ? Nó được tha về hay vẫn trốn tránh từ bấy lâu nay? Tốt nhất mình không dây với nó. Nó có tìm gặp mình cũng nên lựa lời. Và sớm mai bằng giá nào mình cũng phải gặp thằng Hoàng cháu họ lão hiện đang làm công an trưởng xã này. Nó phải nắm được việc này, xem thế nào.
Lão vặn nhỏ ngọn đèn leo lên giường không chờ vợ về. Không biết con cóc kềnh vợ lão đã mang đi đâu chưa mà vẫn thấy tiếng nghiến răng trèo trẹo dưới gầm giường. Hình như có làn khói xanh leo lét vương lên nóc góc tủ. Một mùi tanh tanh đến lộn mửa làm lão nôn thốc nôn tháo. Lão Đởm trống ngực đánh hơn trống làng kéo chăn chùm đầu kín min mít.



Phần nhận xét hiển thị trên trang